Phán xét tính đạo đức, lương tri nhân bản của nhân vật Kissinger
LTS.-Thăm dò phản ứng độc giả Người Việt Dallas về cái chết của cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger. Chúng tôi ghi nhận đa số đều có một thái độ giống nhau: “không thương tiếc”. Một độc giả mới từ thành phố Portland Oregon là ông Vương Thế Hạnh từng hoạt động trong ngành tình báo VNCH thuộc Vùng II và Quân Khu II trước năm 1975. Ông nhận xét dưới áp lực của Hoa Kỳ qua đại diện là Kissinger, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mặc dù phẫn nộ nhưng thiếu cương quyết đáp trả một cách mãnh liệt vì biết rằng ván bài đã sắp kết thúc.
Trong cuộc phỏng vấn mới nhất của ký giả Phạm Trần lại cho biết thêm về thái độ của cố TT Thiệu
Phạm Trần : Ông có thể ghi lại những "phản ứng quyết liệt" của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong những lần nói chuyện tại Dinh Độc lập với phía Mỹ nói chung và riêng hai ông Kissinger và Tướng Alexander Haig về hòa đàm Paris ?
Hoàng Đức Nhã : Tổng thống Thiệu hành động rất bình tỉnh và không hề khóc lóc, đập bàn như một vài người viết lại trong sách của họ. Có hai trường hợp rất căng thẳng cho thấy cách Tổng thống Thiệu đối đầu với đe dọa của phía Hoa Kỳ.
Lần đầu là trong những ngày tháng 10 năm 1972 khi ông Kissinger hăm dọa một cách mĩa mai rằng " hai ông (Tổng thống Thiệu và tôi) không nên trở thành người tử đạo (you two should not try to be martyrs)" – Tổng thống Thiệu không trả lời và ngó qua tôi cũng như nói tôi trả lời đi. Tôi nói với ông Kissinger "chúng tôi không hề muốn trở thành người tử đạo. Chúng tôi chỉ là người ái quốc thi hành Hiến pháp một cách nghiêm chỉnh để bảo vệ quê hương chúng tôi". Ông Kissinger rất bực tức vì thấy tôi trả lời ông ta thay vì Tổng thống Thiệu.
Lần thứ hai là khi ông Alexander Haig qua Saigon vào đầu 11 năm 1972. Mục đích của ông ta là tiếp tục ép Tổng thống Thiệu chấp thuận bản thảo Hiệp định mà ông Kissinger không thuyết phục đươc. Khi Tổng thống Thiệu lập đi lập lại rằng Việt Nam Cộng Hòa không thể ký bản thảo Hiệp định này nếu không có những điều khoản rất quan trọng cho Việt Nam Cộng Hòa. Ông Haig rất bực tức, và với một giọng trầm và nét mặt giận dữ nói rằng Hao Kỳ "sẽ có những hành động rất táo bạo (brutal actions) đối với Việt Nam Cộng Hòa". Cũng như lần ông Kissinger đe dọa lần này Tổng thống Thiệu cũng ngó về tôi, và tôi nói với ông Haig rằng "hành động táo bạo hả? Chắc cũng táo bạo như trong tháng 11 năm 1963 chứ gì ?".
Henry Kissinger là người mà lịch sử Việt Nam ghi nhớ vì ông gốc Do Thái này chính là thủ phạm bán đứng Việt Nam Cộng Hòa.
Kissinger đã sắp xếp hai chuyến thăm thượng đỉnh nổi tiếng của TT Mỹ Nixon: một tới Trung Quốc và một tới Liên Xô, cùng trong năm 1972. Món quà là Việt Nam Cộng Hòa. Đọc sử, chúng ta hiểu được sự láu cá và dã tâm của người Mỹ trong cuộc chiến VN, rằng họ chưa bao giờ thực lòng muốn VNCH thắng.
Hai phe trong cuộc chiến tranh, trong khi bên Bắc Việt thì Liên Xô và Tàu rót tài chánh ào ạt, còn Mỹ thì... cầm chừng, rồi những toan tính sau hiệp định Paris.
Ngày 23-6 năm 2009, tin từ AFP cho biết Cơ quan Lưu trữ quốc gia Mỹ đã công bố các cuộn băng ghi âm dài hơn 150 giờ và khoảng 30.000 tài liệu văn bản dưới thời tổng thống Mỹ Richard Nixon.
Tổng thống Mỹ Richard Nixon và ông Henry Kissinger ép Việt Nam Cộng Hòa phải ký hiệp định Paris.
Chỉ vài giờ trước lễ nhậm chức lần thứ hai vào tháng 1-1973, Nixon đã gọi điện cho Henry Kissinger và hối thúc ông này gây sức ép để Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ký vào Hiệp định Paris, Nixon nói “Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì, hay cắt đầu hắn ta, nếu cần thiết”.
Henry Kissinger nói: “Bộ trưởng ngoại giao VNCH (Trần Văn Lắm) là một con lừa và chẳng thể làm gì hết". Như ta biết, Kissinger là người mà TT Nguyễn Văn Thiệu ghét cay ghét đắng và Kissinger cũng ghét cay ghét đắng TT Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 21/02/1972 TT Nixon thăm Trung Cộng.
Ngày 22/10/1972 Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nổi giận khi Kissinger ép buộc ông phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định đình chiến mà Kissinger đã cùng Lê Đức Thọ soạn thảo tại Paris.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khuyến cáo Kissinger:
“Tôi không đồng ý về việc một số nhân viên của quý vị đi nói khắp Sài Gòn là tôi đã ký. Tôi chưa ký kết gì cả. Tôi không phản đối hòa bình nhưng tôi chưa nhận được một trả lời thỏa đáng nào của quý vị cho nên tôi sẽ không ký”. Kissinger mất bình tĩnh với tuyên bố của Tổng thống Thiệu, ông nói ông đã thành công ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ ông phải thất bại tại Sài Gòn: “Nếu ngài không ký, chúng tôi sẽ xúc tiến một mình”.
Ngày 25/10/1971 Trung Cộng giành ghế Hội đồng Bảo an LHQ, thay Đài Loan tiếp quản quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Ngày 27/1/1973 ký hiệp định tại Paris, Hoa Kỳ coi như bán đứng VNCH.
Mỹ bán Hoàng Sa cho Tàu, tháng 1/1974 Mỹ ngăn chặn hải quân Việt Nam Cộng Hoà đem những chiến ham lớn ra đánh TQ, Mỹ ngồi ngó Tàu chiếm Hoàng Sa.
Cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu từng nói : ”Họ (Huê Kỳ) đã đâm sau lưng chúng tôi”. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi từ chức nói rằng: Người Mỹ từ chối giúp đỡ cho một nước đồng minh, bỏ rơi một nước đồng minh như vậy là một điều vô nhân đạo. Các ông để cho chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Đó là hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo”. Ông Thiệu chua chát nói rằng: “Tại một vài nơi, quân đội của chúng ta đã chiến đấu rất dũng cảm nhưng tôi cũng phải nhìn nhận rằng có một vài cấp lãnh đạo quân đội, không phải tất cả, đã tỏ ra hèn nhát. Tôi có thể tiếp tục nhiệm vụ tổng thống để lãnh đạo cuộc chiến đấu tuy nhiên tôi không còn có thể cung cấp vũ khí đạn dược (vì người Mỹ đã cúp viện trợ) để cho quân đội tiếp tục công cuộc chiến đấu”.
Nhân dân có thể ghét tôi và họ cho rằng tôi sẽ là một chướng ngại vật cho hoà bình và do đó tôi chỉ còn một giải pháp duy nhất, đó là từ chức”.
TT Trần Văn Hương lên, trong bài phát biểu ngày 26/4/1975 nói: "Thưa quý vị, tình trạng đất nước khó khăn như thế nào, có lẽ quý vị đã biết rõ rồi. Tổng thống trao quyền lại cho tôi chẳng những là khó khăn, mà còn rất là bi đát. Bởi vì như quý vị đã biết, trong bốn vùng của chúng ta, hiện giờ chúng ta đã mất hơn hai vùng rồi, còn lại vùng III và vùng IV thì đã sứt mẻ, và sứt mẻ này có thể một ngày một lan rộng, và tình trạng khốn khổ, đau thương chẳng những là của toàn xứ mà của cả Sài Gòn và Chợ Lớn này trong những ngày gần đây".
Henry Kissinger một người Mỹ gốc Do Thái đã chơi một ván cờ với Liên Xô và Tàu, trong đó Miền Nam là một món hàng hóa. Dân tộc VN dính chưởng của dân Do Thái.
Chúng ta hiểu vì sao không vô duyên cớ mà Adolf Hitler lại rất ghét dân Do Thái.
Tuần báo Đức Der Spiel số 50 ngày 09.12.1979 có phỏng vấn cựu TT Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Spiegel:
- Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: “Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt.”
TT Nguyễn Văn Thiệu (cười):
- Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc tầm bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ."
Đây là một bài học lịch sử của VN.
Chìa khóa tồn tại và phát triển của dân tôc Việt chúng ta sau này không có nằm bên Hoa Thịnh Đốn hay Ba Lê, Bắc Kinh…, nó nằm trong lịch sử, trên trống đồng, trong trái tim và lòng dạ của mỗi người VN chúng ta.
Cái chết của Henry Kissinger có nên đưa ra một sự sự phán xét một người được mệnh danh là con cú ăn đêm về trò chơi ngoại giao!
Người ta nên áp dụng đạo đức như thế nào vào tài ứng biến chính trị thương lượng để thao túng, nắm thóp, dùng điều kiện hòng "quản trị" chính khách thế giới của Henry Kissinger?
Làm thế nào một người có thể cân bằng những thành tựu của mình với những hành vi sai trái vô lương của mình? Đứng trước đông đảo khán giả ở Harvard và hỏi liệu, nhìn lại, liệu ông ta có làm điều gì khác biệt trong thời gian làm ngoại trưởng cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Gerald Ford hay không. Lúc đầu, Kissinger nói không. Khi suy nghĩ lại, Kissinger nói rằng hắn ước mình đã tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng Kissinger không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người biểu tình ở phía sau hội trường hét lên: “tội phạm chiến tranh!”
Những biện luận vô lương, thất đạo với cuộc chiến Việt Nam cũng như những xáo trộn chính trị tai Nan Mỹ và Nam Tây Á, Ấn Hồi
Nhưng có một mặt khác của "sổ 'cái' tội ác". Về những thất bại về lòng nhân bản về hướng quản trị đạo đức của Kissinger bao gồm việc ném bom Campuchia từ năm 1969 đến năm 1970, không làm gì để ngăn chặn sự tàn bạo của Pakistan trong cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971, và ủng hộ cuộc đảo chính ở Chile năm 1973.
Trước tiên, hãy xem xét Chile. Chính phủ Hoa Kỳ không xúi giục cuộc đảo chính lật đổ tổng thống được bầu cử dân chủ của đất nước và lập một nhà độc tài quân sự, nhưng Kissinger nói rõ rằng Washington không phản đối. Những người bảo vệ ông lập luận rằng Washington không có lựa chọn nào khác ngoài việc ủng hộ chính quyền, vì chế độ trước đó là cánh tả và có thể rơi vào phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Nhưng việc có một chính phủ cánh hữu ở Chile không thực sự quan trọng đối với uy tín toàn cầu của Mỹ trong một thế giới lưỡng cực, và chính phủ cánh tả gần như không đủ sức đe dọa an ninh để biện minh cho việc tiếp tay cho việc lật đổ chính phủ này. Rốt cuộc, Kissinger đã từng ví Chile như một con dao găm chĩa vào trung tâm Nam cực châu Mỹ.
Trong cuộc chiến tranh Bangladesh ly khai khỏi Pakistan, Kissinger và Nixon bị chỉ trích vì không lên án Tổng thống Pakistan Yahya Khan vì đàn áp và đổ máu ở Bangladesh, khiến ít nhất 300.000 người Bengal thiệt mạng và khiến làn sóng người tị nạn tràn vào Ấn Độ. Kissinger lập luận rằng sự im lặng của ông là cần thiết để đảm bảo sự giúp đỡ của Yahya trong việc thiết lập quan hệ với Trung cộng. Nhưng ông ta thừa nhận rằng cá nhân Nixon không thích Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi, người được Kissinger tiếp tay, cũng là một yếu tố.
Vụ ném bom Campuchia năm 1970 được cho là nhằm phá hủy "đường mòn hồ chí minh" cùng các tuyến đường xâm nhập của quân Bắc Việt cộng sản qua ngả Campuchia và các vùng biên giới Việt Miên Lào, nhưng cuối cùng, các cuộc tấn công bằng không quân này không rút ngắn hay kết thúc chiến tranh. Nhưng những gì Mỹ làm là giúp chế độ diệt chủng Khmer Đỏ nắm quyền ở Campuchia, dẫn đến cái chết của hơn 1,5 triệu người. Đối với một người đề cao tầm quan trọng của tầm nhìn dài hạn về bảo vệ tự do, đây là ba thất bại.
Sự phản bội bất lương của hắn về cuộc chiến Việt Nam!
Đó là chiến tranh Việt Nam. Kissinger mô tả các chính sách của ông ta trong cuộc xung đột là một thành công đáng lẽ phải có, những quyết định có thể đã cứu được miền Nam Việt Nam như một xã hội tự do nếu không có Watergate và quyết định của Quốc hội rút lại sự ủng hộ đối với sự can dự của Hoa Kỳ. Nhưng đây là một câu chuyện tự phục vụ về một lịch sử phức tạp.
Kissinger và Nixon ban đầu hy vọng liên kết các vấn đề kiểm soát vũ khí với Việt Nam, trong nỗ lực khiến Liên Xô gây áp lực buộc Hà Nội ngừng tấn công miền Nam. Nhưng khi những hy vọng này tỏ ra hão huyền, họ đã quyết định chọn một giải pháp thương lượng để tạo ra cái mà Kissinger gọi là “một khoảng thời gian vừa phải” giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Hoa Kỳ và Bắc Việt cuối cùng đã ký một thỏa thuận hòa bình ở Paris vào tháng 1 năm 1973, cho phép miền Bắc để quân đội ở lại miền Nam. Khi Kissinger được hỏi riêng rằng ông nghĩ chính phủ Nam Việt Nam có thể tồn tại được bao lâu, ông trả lời: “Nếu may mắn, họ có thể cầm cự được một năm rưỡi”. Cuối cùng thì anh cũng không còn xa nữa. Miền Nam Việt Nam chỉ tồn tại được hơn hai năm sau hiệp dịnh Paris khốn kiếp, vì quân đội VNCH không còn quân cụ đạn dược để tiếp tục chiến đấu và tự vệ, bỏa vệ nền cộng hòa tự do dân chủ còn non trẻ của VNCH.
Nixon và Kissinger đã kết thúc Chiến tranh Việt Nam, nhưng những nỗ lực của Mỹ đã phải trả giá đắt về mặt đạo đức. Chỉ hơn 21.000 người Mỹ đã chết trong ba năm nắm quyền, so với 36.756 dưới thời Johnson và 108 dưới thời Kennedy. Thiệt hại ở Đông Dương còn lớn hơn nhiều: hàng triệu người Việt Nam và Campuchia đã bị giết dưới thời cai trị của họ. Kissinger và Nixon tiếp tục đấu tranh để bảo vệ uy tín của Washington - một thuộc tính quan trọng trong các vấn đề quốc tế, nhưng vẫn chưa rõ ràng rằng việc tạo ra một “khoảng cách hợp lý” khiêm tốn có đáng để gây ra tổn thất nặng nề như vậy hay không.
Những lựa chọn đạo đức đôi khi ít tệ nạn hơn. Nếu Kissinger và Nixon làm theo lời khuyên của các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ như William Fulbright và George Aiken và rút lui sớm, chấp nhận rằng Sài Gòn cuối cùng sẽ bị đánh bại, thì sức mạnh toàn cầu của Mỹ sẽ bị thiệt hại, nhưng dù sao thì uy tín của đất nước cũng bị ảnh hưởng sau đó. Sài Gòn thất thủ năm 1975. Chấp nhận thất bại và tuyên bố rút quân trong suốt năm 1969 có thể là một bước đi can đảm theo quan điểm của nước Mỹ, nhưng tốn kém về mặt chính trị là sự phản bội lại đồng mình và những hy sinh vô nghĩa của các GI Mỹ đã bõ mạng tại VN.
Kissinger và Nixon đã chứng tỏ mình có khả năng thực hiện những động thái như vậy khi đụng đến Trung cộng; tuy nhiên ở Việt Nam thì không. Thay vào đó, những lựa chọn của họ không làm thay đổi kết quả cuối cùng và nó tỏ ra tốn kém về mạng sống cũng như uy tín của Hoa Kỳ.
Kissinger đôi khi đã không thể sống xứng đáng với những đức tính đạo đức như tính cách và lòng dũng cảm của mình. Hơn nữa, một số phương tiện của anh ta còn đáng nghi ngờ. Quan hệ quốc tế là một môi trường khó khăn về mặt đạo đức, và chính sách đối ngoại là một thế giới của sự thỏa hiệp giữa các giá trị. Nhưng xét về mặt hậu quả, thế giới có trở nên một nơi tốt đẹp hơn nhờ tài lãnh đạo của ông ta hay không??! Với những thành công có nhiều hơn những thất bại, mà những nước nhược tiểu và dân chúng của những quốc gia này phải gánh chịu như Việt Nam đã hoàn toàn lọt vào tay cộng sản và Tầu cộng đang trở thành kẻ kẻ thù của nước Mỹ mà ông ta đã phục vụ!
(nguồn: FB Nguyễn Gia Việt)