Tu sĩ Minh Tuệ đã hoàn thành công hạnh – Ban Tôn Giáo đã đánh mất Phật Giáo như thế nào?
Trần Kiêm Đoàn
Thực trạng mất còn của đạo Phật trong suốt 2568 năm qua không nằm trong quy ước mất còn của thế tục bởi bản chất cứu khổ của đạo Phật không tính bằng đơn vị cân đo đong đếm của đời thường.
Phật giáo mất như thế nào?
Đây không còn là một câu hỏi mà thật ra cần một câu trả lời.
Phật giáo là một biểu tượng thanh thoát của đời sống tinh thần bình thường mà an lạc. Bởi vậy, sự lẩn quẩn trong một thế giới chỉ thấy vật chất và hình tướng, bị nguyên tắc bao quanh thì dẫu cho ở chốn đại thiền môn chùa to tượng lớn, tứ chúng rầm rộ, lễ lạc tưng bừng thì cũng vắng bóng đạo Phật ví như biển nước đục ngầu dậy sóng thì làm sao thấy được bóng trời xanh.
Cho nên cái “được” trong Phật giáo rất có thể là cái “mất” giữa đời thường và ngược lại. Sau khi đắc đạo trở về thăm lại Hoàng cung và phụ vương, đức Phật đã gặp lại người anh em họ đầy tỵ hiềm và ganh tỵ. Thấy đức Phật đi chân đất, tay ôm bình bát khất thực, mình choàng tấm áo cà sa đơn giản. Đề Bà Đạt Đa nhếch mép cười thách thức và hỏi: “Thế Anh ra đi bao lâu, sáu năm khổ hạnh để được cái gì?”
“Ta mất đi nhiều hơn là được” mỉm cười, đức Phật trả lời.
“Thảo nào! Đấy là một sự thất bại lớn…” Đề Bà Đạt Đa kêu lên và cười to thỏa mãn.
Chẳng cần quan tâm dao động thị phi, đức Phật nhẹ nhàng hóa giải, “Ta mất đi lòng tham danh lợi, mất hết tức giận hận thù, mất hẳn si mê bám chấp và bảo thủ. Mất nhiều mà chỉ được một, đó là thân tâm thường an lạc.”
Năm 520, diện kiến Đạt Ma Tổ sư, Lương Vũ Đế hỏi: “Từ ngày lên ngôi tới nay, trẫm đã cho xây nhiều chùa to tượng lớn, ấn tống kinh sách, hảo độ hàng vạn tăng chúng, công đức như thế có lớn không?”
Đạt Ma đáp: “Chẳng có gì đáng kể cả”
“Tại sao hộ pháp, độ tăng nhiều như thế mà lại không có công đức gì cả?”
“Bởi vì những việc vua làm chỉ là nhân ‘hữu lậu’. Đấy chi là những thành quả nhỏ trong vòng nhân thiên, ảo tướng tùy hình, có mà chẳng thật.”
“Như thế, thật tướng công đức là gì”
Đạt Ma thuyết: “Tâm thanh tịnh, thể trống không rỗng lặng mới thật là công đức, công phu. Vì thế không thể lấy việc thế gian mà đo lường được.”
Và có bao nhiêu cái được đời thường hóa ra là mất trong tầm nhìn Phật giáo.
Sau cuộc đấu tranh đòi hỏi quyền tự do và bình đẳng tôn giáo năm 1963, giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập. Năm 1981, giáo hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Tôn giáo Chính phủ với khẩu hiệu: Dân Tộc – Đạo Pháp – Xã hội Chủ nghĩa. Đại chúng Phật giáo nghiêm khắc đặt vấn đề: “Có chăng thay khẩu hiệu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc bằng Độc lập – Tự do – Giải thoát liệu Ban Tôn Giáo có khả dĩ chấp nhận được chăng?”
Một đạo Phật truyền thống, vô hình chung, bị cột buộc vào một chủ nghĩa chính trị và xã hội của thế lực cầm quyền thì sự phát triển của Phật giáo tất nhiên sẽ bị rẽ hướng theo nhu cầu chính trị thế quyền. Và hơn 40 năm qua, Phật giáo Việt Nam đã trở thành một phương tiện của chính quyền về mặt lãnh đạo, tổ chức và sinh hoạt.
Vai trò của Phật giáo đối với đất nước suốt dòng lịch sử là gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Tổ quốc điêu tàn thì Đạo pháp cũng suy vong. Thời thịnh trị có sự đồng hành tương tác giữa tôn giáo và thế lực lãnh đạo như thời đại Lý Trần, Phật giáo đóng vai trò tham vấn về đạo lý và sức mạnh tinh thần cho vua quan ứng dụng tinh thần thân dân và thực hiện vai trò bảo vệ đất nước. Phật hoàng Trần Nhân Tông đã từng cởi cẩm bào khoác chiến bào chống xâm lăng và khi tổ quốc bình trị thì treo chiến bào để khoác áo cà sa. Những thiền sư Vạn Hạnh, Khuông Việt, Tuệ Trung… là những nhà tham vấn lỗi lạc làm chỗ dựa cho vua quan trong quá trình trị nước an dân.
Nhưng một khi tôn giáo (bất cứ tôn giáo nào) đã biến thành phương tiện làm đẹp tinh thần của chính trị thế quyền thì tôn giáo đó chỉ còn là những cổ xe tứ mã để trang điểm cho người nắm quyền lực hơn là còn có được một vai trò dù là khiêm tốn đến mức nào để có cơ hội đóng góp cho quá trình trị nước an dân.
Đánh mất là khi đã cầm trên tay nhưng để rơi ra ngoài tầm hành hoạt. Đạo Phật đã rơi khỏi tay của Ban Tôn giáo khi quan hệ tương tác giữa đôi bên không còn là đối thoại song phương mà thi hành chỉ thị. Hoạt động nội bộ của đạo Phật như bổ nhiệm trụ trì, tấn phong đạo vị, hoàn thiện nhân sự cho giáo hội… đã phải phủ phục nhận quyết định từ thế lực cầm quyền.
Ban Tôn giáo đã đánh mất Phật giáo như thế nào:
– Phật giáo đã bị thu lại thành một đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Tổ quốc.
– Hàng giáo phẩm Phật giáo được bổ nhiệm như quan chức Nhà Nước.
– Giáo quyền do thế quyền chủ động hành xử và chỉ còn đóng vai trò lễ nghi, thụ hưởng.
– Giới luật nhà Phật triển khai và ứng dụng bị vận dụng hay cưỡng chế bằng pháp luật xã hội.
– Nội dung hoằng pháp, hộ pháp và trạch pháp do thế quyền chỉ đạo.
– Tăng Ni và Phật tử biến tướng thành khối quần chúng phụ thuộc, vô danh.
Trong một hoàn cảnh như thế tuy Phật giáo vẫn còn tồn tại; thậm chí phát triển tưng bừng, hoa hòe hơn nhưng chỉ là hình tướng và phương tiện nên phàm tăng, tục chúng nhiễu loạn cửa thiền càng trầm trọng. Chân tăng, thiện tri thức và tín chúng thì rút lui vào im lặng trong khi cảnh chùa viện Phật giáo càng ngày càng náo nhiệt như một bệnh dịch đang hoành hành.
Bậc cao minh lắc đầu ngao ngán, phường phàm phu đắc chí vênh vang. Cửa thiền rộng mở nhưng không phải cảnh thiền môn thanh tịnh, Tam Bảo trang nghiêm mà ngược lại, Tam Bảo bất an, nhân tâm náo loạn.
Khi Phật giáo bị đánh mất thì “Phật sự đa đoan” trở nên tha hóa, mập mờ và hỗn tạp với những hiện tượng bất pháp, vô minh, thân tàn, tâm diệt.
Khi Phật giáo bị đánh mất thì thiền môn bất tịnh, chân tăng thối chuyển, ma quỷ vận áo cà sa lên ngôi với những trò thuyết pháp mỵ tín đồ, pháp ngôn dung tục, nội hàm cẩu thả và pháp chủ tà môn.
Khi Phật giáo bị đánh mất thì ba ngôi Tam Bảo chỉ còn một ngôi Nhất Bảo Kim Cang Phật may ra yên vị; trong lúc Tăng Bảo thoái trào và Pháp Bảo lung lay.
Khi Phật giáo bị đánh mất thì pháp nạn tự thân xuất hiện: Tu sĩ biến thành doanh nhân; tín đồ Phật tử biến thành những phẩm vật tế thần cúng dường vô điều kiện cho những dịch vụ ma vương như những trò lừa mị kiểu xá lợi Phật, cúng tế cầu vong, oan gia trái chủ… trùng trùng mê tín dị đoan loạn động, công khai mà mọi người đều chứng kiến.
Công án Minh Tuệ: Hoàn Không
Chữ “không” trong Phật giáo được các học giả phương Tây dịch ra thành nhiều cách, mỗi cách mang một nội dung khác nhau: Không (nothingness = không có gì cả), không (emptiness = trống không), không (nihility = hư vô), không (voidness = không có ). Tôi chọn khái niệm sau cùng nầy khi nhìn tấm ngân phiếu mình đã ghi lên đó số tiền bao nhiêu, trả cho ai nhưng khi muốn hủy tất cả “cái có” thành “cái không” thì tôi viết trên chi phiếu đó một chữ đậm là “VOID”: Cái ngân phiếu thành ra thực tế có đó nhưng nó hoàn toàn trống rỗng, không mang một cái có thực hữu nào cả. Khái niệm này chỉ ra rằng tất cả các hiện tượng đều không có bản chất tự thân và không tồn tại độc lập. Mọi vật đều phụ thuộc lẫn nhau và chỉ tồn tại do các nhân duyên hợp lại.
Công án, nói một cách phổ thông và dễ hiểu là những lời nói, việc làm, động thái, sự kiện nhưng chúng ta không thể hiếu hay tìm ra ý nghĩa rõ ràng của nó bằng kiến thức, cảm quan, suy luận theo ý nghĩa thông thường mà chỉ có thể thâm nhập hay nhận thức nó bằng trực giác.
Từ mấy hôm nay, hiện tượng Minh Tuệ làm tôi suy nghĩ. Tuy mọi sự kiện xoay quanh nhân vật nầy trong suốt như pha lê, thật như đếm, rõ như ban ngày, dễ hiểu như hơi thở của chính mình; thế nhưng tôi cũng như nhiều người vẫn mịt mờ không hiểu nổi “vì sao như thế”?!
Hàng triệu con mắt, tấm lòng và cảm quan đã dồn về Tu sĩ Minh Tuệ đều thấy rõ rằng nhân vật này không có gì đặc biệt cả: Kiến thức Phật học sơ cơ, chẳng có một danh vị nào để xưng tán, chưa được đăng đàn thọ giới, chưa từng qua chùa viện tu trì, không nói một câu Phật lý nào minh triết, chẳng kinh kệ sớm hôm… nghĩa là không một dấu chỉ có sự trói buộc nào vào những quy lệ thường tình của một người xuất gia theo Phật truyền thống.
Thế nhưng Tu sĩ Minh Tuệ có cả một vùng hào quang vô hình trong suốt bao bọc và tỏa chiết đến mọi người: Cái tôi không còn bám chấp, danh lợi là hư không, tham sân đều xả bỏ, ái dục đã xa lìa, cái ngủ cái ăn chỉ đủ để duy trì sự sống, bệnh tật sống chết không màng, tiền bạc của cải vật chất không bao giờ dính tay, lấy khổ hạnh du phương làm an nhiên tự tại. Cái Tánh Hữu đời thường của Tu sĩ Minh Tuệ phảng phất đạo vị Tánh Không tự tại của nhà Phật.
Những ngày theo dõi khá thường xuyên con người và hành trạng của Tu sĩ Minh Tuệ, thoạt tiên tôi cho đó một nguyên cớ, một giọt nước tràn ly của một cái ly đã gần tràn. Chất liệu chứa đầy trong ly mang một nội dung tượng trưng mà rất thật: Đó là Phật giáo Việt Nam với đủ tướng trạng, nội hàm cùng phong cách sinh hoạt của chùa viện, tu sĩ và đại chúng.
Tôi đã viết một tham luận nhỏ có đề tài là: “Tu sĩ Minh Tuệ…giọt nuớc tràn ly” nói lên cảm tưởng của mình về Phật giáo Việt Nam trong tầm quan sát và hiểu biết trực tiếp cũng như gián tiếp của mình.