Ngày Quân Lực 19 tháng 6 tại Dallas-Fort Worth
Arlington, TX.- Năm nay thời tiết nóng sớm hơn hơn mọi năm hai tổ chức Tưởng Niệm Ngày Quân Lực của hai Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và Liên Hội Chiến Sĩ Việt Nam Cộng tổ chức vào hai ngày 18 & 19 tháng 6 tránh được cái nóng nung người khi cử hành nghi thức chào cờ tại Tượng Đài Đức Trần Hưng Đạo cũng như Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ…Đặc biệt quý cựu quân nhân Niên trưởng tuổi tác đã cao, nhiều vị phải tham dự hai buổi lễ để “tự cho mình một sự đoàn kết” với hai tổ chức Liên hội “Cựu” và “không Cựu”. Chúng tôi được nghe diễn giải cho rằng trong quân đội chỉ có danh từ “cựu quân nhân” không có danh từ “cựu chiến sĩ”. Đã là chiến sĩ là không có cựu…Chúng tôi không biết danh từ “Cựu” và “Không Cựu” có phài là nguyên nhân chính sự ra đời hai Liên Hội tại địa phương Dallas-Fort Worth?
Ngày Quân Lực 19-6 năm nay tại địa phương Dallas-Fort Worth không phải là lần đầu tiên có hai tổ chức khác nhau mà cũng có lần hai Liên Hội “Cựu” và “Không Cựu” tổ chức cùng thời gian với nhau. Dù muốn chứng tỏ sự đoàn kết cũng khó mà xẻ thân làm hai cho đề huề để khỏi phải bị kết tội anh bên này hay anh bên kia! Một điều đáng buồn không ai dám nói ra là tại sao lại có sự kiện này xảy ra, bên này đúng hay bên kia đúng. Âm thầm đi cả hai bên là mọi điều em đẹp, giữ được tình bạn và tình chiến hữu…
Một hậu duệ hỏi chúng tôi rằng: “thưa chú Quân Lực VNCH để lại trong quân sử có một trận Ấp Bắc (1963), Trận Bình Giả (1964-1965), Trận Đồng Xoài (1965), Pleime (1968), Lam Sơn 719 (1971), An Lộc (1972) và Xuân Lộc (1975) nhưng lại có hai Liên Hội vậy Chú?” Một câu hỏi thật khó trả lời vì khi tổ chức nói về ý nghĩa Ngày Quân Lực là nói đến sự hy sinh, hào hùng của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Hai tổ chức của hai Liên Hội “Cựu” hay “Không Cựu” là những gì người lính đã hiểu được thế nào là Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm không khỏi nói khác đi được những gì mình đã đóng góp và hy sinh Quân Lực VNCH nói riêng và Tổ Quốc Việt Nam nói chung. Bài phát biểu mà chúng tôi ghi nhận từ bác sĩ Đàng Thiện Hưng, một hậu duệ VNCH như một sự biết ơn không những người đã năm xuống mà cả những niên trưởng còn sinh tiền ở tuổi cuối đời:
“Sự hiện diện của chúng ta hôm nay cho thấy rằng tuy chúng ta là những người lưu vong đã 47 năm xa xứ, nhưng chúng ta vẫn không quên đi những hy sinh cao quý của những người chiến sĩ QLVNCH đã chiến đấu bảo vệ và hy sinh cho Miền Nam Việt Nam. 47 năm đã trôi qua, những người chiến sĩ đó ngày nay tuổi đã về chiều, đầu đã bạc cùng thời gian, khuôn mặt in hằn những khổ đau của một đời lưu vong xa xứ, đôi vai nặng trĩu những trách nhiệm của một người chồng và một người cha bôn ba xứ người phải làm lại cuộc đời, và đôi chân nặng trỉu những gian khổ của một đời tị nạn. Nhưng trong tâm trí của tôi và của những người biết thương đời lính, các anh các chú cựu chiến sĩ vẫn là những người trai hào hùng dũng cảm ngày nào đã một thời chiến đấu bảo vệ Miền Nam trên không gian, trên biển cả, và trên từng tất đất quê hương trong 4 vùng chiến thuật. Máu, mồ hôi và nước mắt của anh các chú đã viết lên những trang quân sữ vinh quang của QLVNCH, ghi lại những chiến trắng hào hùng của Tết Mậu Thân, của Chiến Dịch Hạ Lào, của những trận chiến lẫy lừng trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Suốt 20 năm dài chinh chiến, người chiến sĩ QLVNCH đã bảo vệ không làm mất một tất đất quê hương.
Nhưng đau buồn thay, Miền Nam chúng ta chỉ là một con cờ nhỏ trong bàn cờ chính trị thế giới, nên Quân Đội và người dân Miền Nam đã bị đồng minh bỏ rơi, và người chiến sĩ QLVNCH phải đành buông súng, hàng triệu người phải lao động khổ sai sống đời ngục tù vì tội yêu quê hương, hàng trăm ngàn người phải vượt biên vượt biển xa Tổ Quốc, xa gia đình sống đời tị nạn, và bao người thương phế binh phải sống vất va vất vưởng bên lề xã hội dưới chế độ CS độc tàn. Trong cuộc chiến, hơn ba trăm ngàn chiến sĩ QLVNCH đã đi đến tột đỉnh của hy sinh, đã nằm xuống cho Tổ Quốc, cho Quê Hương, cho lá cờ vàng ba sọc đỏ. Bao người đã bỏ thây trong rừng sâu núi thẳm trong những ngục tù cải tạo. Họ đã chết cho chúng ta được sống, và giờ đây vong linh họ vẫn sống mãi trong tìm thức chúng ta, vẫn sống mãi với thời gian cùng Hồn Thiêng Sông Núi Việt.
47 năm đã trôi qua, giấy mực nào ghi lại đủ những đắng cay của những người Chiến Sĩ QLVNCH và gia đình họ đã chịu đựng trong 20 năm chinh chiến, và của những năm dài sau cuộc chiến. Thời gian nào làm lu mờ được những đắng cay ngậm ngùi của những người xa cơ thất thế, đêm đêm vẫn vọng về cố quốc, mơ một ngày khôi phục Quê Hương? Thời gian nào xoa diệu được những đau thương tận cùng của những người mẹ mất con, ôm xác thân con mình ngày nào ôm ấp trên tay, nay bị tan nát vì lửa đạn chiến tranh? Thời gian nào xoa diệu được nổi mất mát lớn lao của những đứa con mất cha, trong ánh mắt ngây thơ còn hình ảnh người cha hiền trên bàn thờ lung linh ngọn nến, và tự hỏi tại sao vòng tang trắng lại quấn lên mái tóc trẻ thơ cho một người cha sẽ không bao giờ trở lại? Thời gian nào xoa diệu được những đau thương ngút ngàn của những người vợ trẻ khóc chồng, của những đóa hoa thời loạn chưa tròn nghĩa phu thê đã sớm thành cô phụ, một dạ sắt son thờ chồng nuôi con đến suốt cuộc đời?
Cho dù 47 năm đã trôi qua, hay hàng 100 năm nửa sẽ đến, chúng ta không thể để bụi thời gian làm lu mờ được những hy sinh cao quý đó, vì có những hy sinh đó mà ngày nay chúng ta mới được sống trong tự do dân chủ, và con cháu chúng ta mới có cơ hội sinh ra và lớn lên trong một cường quốc đầy cơ hội này. Chúng ta phải có trách nhiệm ghi nhớ những hy sinh của thế hệ cha anh, để những hy sinh cao quý đó sống mãi trong tâm thức của những người Việt tị nạn ngày nay, và cho những thế hệ con cháu ngày sau…”
Lời cuối cho bài viết Ngày Quân Lực 19-6 năm nay tại địa phương Dallas là cầu nguyện cho một sự đoàn kết của những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Dù ở bên này hay bên kia không có gì ngăn cách khi chúng ta cùng nghĩ lại đã một thời chúng ta là chiến hữu, từng chung một quân trường, từng chiến đấu bên nhau nhưng lại không biết tại sao hôm nay lại quay lưng khi tuổi chiều xế bóng!
Thái Hóa Lộc