Gặp lại anh trong mơ

Thịnh Hoàng Vũ

LTS.- Chúng tôi biết anh chị Trung-Trang từ nhiều năm và cùng là giáo dân sinh hoạt trong Giáo Xứ Thánh Phêrô Dallas. Chúng tôi cũng đã đi qua nhiều lần tháng tư nhưng chưa bao giờ được chị Trang vợ anh Trung kể về thảm cảnh vượt biên của gia đình cách nay 40 năm về trước. Chị đã mất đi người em trai của mình. Câu chuyện được kể lại từ người em gái của chị. Người em gái này đã gặp lại anh trong giấc mơ của mình. Là một biến cố đau thương, chuyện riêng của gia đình đã ôm ấp nhiều năm, nhắc lại thêm đau lòng.

Nhưng trong giấc mơ, theo ý nguyện của người xấu số muốn người em mình chia sẻ một chuyện có thật trong một chuyến hành trình vượt biển hải hùng nếu không gặp Đức Mẹ, một tay cầm quả địa cầu, một tay Đức Mẹ chỉ hướng chiếc tàu và  tự nó xoay mũi vào bờ…Một phép lạ mà Đức Mẹ đã cứu sống những người còn lại trên tàu trong đó có tác giả của câu chuyện dưới đây, là em gái chị Trang vợ anh Trung và là em của anh Vũ Quang Sáng.

Gia đình anh chị Trung - Trang trước khi vượt biên

Nói đến phép lạ còn xảy ra ngày nay, nhiều người sẽ không tin, hay nửa tin nửa ngờ, mặc dầu nhiều đấng chăn chiên đã khẳng định điều này. Nếu chúng ta hiểu phép lạ theo nghĩa “bình dân” một chút, nghĩa là phép lạ không cần phải là một sự kiện to lớn như khăn liệm Chúa Giê-Su có in hình Người, hoặc Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, v. v. , mà phép lạ chỉ là một sự việc mà chúng ta không thể giải thích được bằng sự hiểu biết tự nhiên, sự hiểu biết khoa học, thì quả thực phép lạ vẫn còn xảy ra trong cuộc sống của chúng ta mà chúng ta không biết.

Cũng trên chiếc tàu này có một người con gái 33 tuổi có bầu được ba tháng, đi trên biển đói khát gần hai tháng khi thấy Đức Mẹ  được cứu vớt lên bờ ngày 20 tháng 8, và ngày hôm sau 21/8 người có bầu sanh được bé gái, chỉ nhỏ bằng chai nước, đặt tên là Hồng Ân. Theo thời gian cháu đã lớn một cách bình thường như các đứa trẻ khác và trưởng thành. Bây giờ cháu là làm nhiệm vụ cứu người tại bệnh viện Alexandria, thành phố Edmonton của Canada.

Cô bé sinh non sau một ngày người mẹ lên bờ

Cháu bé sanh ngày xưa ở Phi và bây giờ có gia đình và 3 con

Những nhân vật được kể là có thật! Mục đích của câu chuyện được nhắc lại của người trong cuộc là để làm Sáng Danh Thiên Chúa và Tạ Ơn Đức Mẹ đã cứu sống những người còn lại trên chiếc tàu nhóm 15;cũng xin góp lời cầu nguyện 10 người đã ra đi trong đó có bào huynh của tác giả Thịnh Hoàng Vũ cùng hàng trăm ngàn thuyền nhân Việt Nam khác đã vùi sâu dưới lòng đại dương nhân dịp Tháng Tư buồn…

Người Việt Dallas   

Cứ mỗi lần Tháng Tư về lòng tôi lại quặn thắt nhớ về người anh của tôi đã nằm trong lòng đại dương trong một chuyến vượt biên hãi hùng 25 người chỉ còn lại 15 thuyền nhân được cứu lên bờ và trên đảo thường gọi nhóm chúng tôi là nhóm 15…Câu chuyện đau lòng mà tôi muốn kể lại được thúc đẩy trong một giấc mơ, và tôi đã gặp anh tôi. Tôi là người em gái được anh yêu thương, cũng chính anh mà tôi tìm thấy là ánh sao trong đêm tối giữa những gian ác hận thù để tôi tự hỏi: “Tại sao tuổi trẻ đầy nhiệt huyết như anh tôi lại phải bỏ nước ra đi tìm sự sống trong cái chết chập chờn vây quanh qua đường vượt biển? Và con đường tìm kiếm tự do và sự sống gia đình tôi đã mất quá nhiều trong đó sự ra đi mãi mãi của anh tôi không bao giờ trở lại, ngoài giấc mơ mà tôi vừa nhận ra, anh Sáng người anh của tôi ngày nào…

Anh tôi tên thật là Vũ Quang Sáng, tên thánh là Dominico. Từ lúc còn nhỏ, anh tôi có tư chất thông minh và hiếu học, hiền ngoan. Anh đã đậu thủ khoa vào cuộc thi tuyển cả ngàn chủng sinh vào Đại chủng viện Giáo Hoàng Gioan XXIII Mỹ Tho.

Anh có cuộc sống tuổi thơ đầy hoa mộng và một tương lai sáng sủa. Một người bạn của anh đã nhắc lại: “Bây giờ nhớ lại tuổi học trò đẹp tuyệt vời. lãng mạn mơ mộng… mê triết học, văn chương Việt văn, làm thơ… Sáng lấy bút hiệu là “Kim Thông” chơi chữ “Thông Kim Bác Cổ”. Tuổi thơ của anh Sáng với những người bạn như Nguyễn Đức Khang, Chất, Cường với một kỷ niệm vui là mùa hè 70,hay 71 không nhớ rõ Khang với Sáng đi chơi mà trong túi chằng bao nhiêu tiền. Ghé Tân Phú thăm Cường. Về xóm Mới ờ nhà dì Chúc (lúc dì Chúc chưa có chồng). Sau đó, nổi hứng đi Vũng Tàu. Tối mượn ghế bố ngũ ngoài bãi sau, đêm lạnh quá không ngủ được, sáng sớm cuốn gói về lại Mỹ Tho. Đúng tuổi thơ! Chằng biết lo sợ là gì! Tụi em còn có sở thích giống nhau là mê đọc sách. Có được tí tiền là mua sách hết!   

Anh Vũ Quang Sáng và tác giả lúc còn ở Việt nam

Biến cố 30 tháng Tư lại đến, vận nước đổi thay, miền Nam Việt Nam bị Cộng Sản miền Bắc cưỡng bức thôn tính. Hàng ngàn Quân, Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa vào tù dưới danh nghĩa là “trại học tập cải tạo”. Đại Chủng viện Giáo Hoàng XXIII Mỹ Tho bị giải tán, các chủng sinh bị đuổi ra ngoài. Trong số các bạn của anh là anh Cường và anh Ân cùng chung số phận được anh đưa về Saigon tá túc nhưng cũng là lúc Ba của chúng tôi bị nhà cầm quyền mới gọi là “Cách Mạng” gán cho tội “Phản động”, chống phá nhà cầm quyền Cách Mạng. Cuộc sống của những gia đình như chúng tôi ngày càng khó khăn và bị kiểm soát chặt chẽ hơn bao giờ hết…

Nhằm mục đích đàn áp dưới hình thức cổ động tinh thần “lao động là vinh quang” – Nghĩa vụ lao động là điều kiện ắt có và đủ của thanh thiếu niên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà cầm quyền hô hào thanh niên đi làm nghĩa vụ thủy lợi nhưng thật sự là không có thời gian hội họp chống đối cũng như bây giờ đang ru ngủ những trò ăn chơi như chúng ta đã thấy cùng với phong trào Việt kiều về du hí. Không những chỉ áp dụng cho thanh niên, các thiếu nữ cũng không tha và anh lại là người đi công tác thay thế cho các chị. Những ngày công tác thật kham khổ, làm thủy lợi chỉ là cái cớ vắt kiệt sức người dân. Các chuyến công tác đôi khi kéo dài hàng tháng. Chắc anh nhớ Ba Mẹ và chị em nhiều lắm!!

LẦN VƯỢT BIÊN ĐẦU TIÊN

Chuyến vượt biên đầu tiên khi ra ngoài biển thì gặp sóng quá lớn nên mọi người quyết định quay lại vào bờ. Và tai họa ụp tới. Trong đêm vừa mưa lại gió mọi người cùng tụm lại trong hai áo mưa, vì không biết lợi dụng phân tán mỏng đề tránh công an phát hiện, lại sợ lạc nhau trong khu rừng ô rô. Sáng hôm sau một toán du kích địa phương phát hiện với súng AKa hằn học dẫn cả đám. Chúng xỏ chân những người đàn ông trai tráng chung một thanh sắt dài nhốt trong một căn nhà gạch có lỗ khóa bên ngoài. Đàn bà, con nít thì đưa về một căn nhà khác nhưng không bị cầm chân. Tối đến chúng lùa hết ra ngoài sân để lục xét và vơ vét… Chắng những thế chúng còn đưa từng người vào căn chòi lá, bắt cởi hết quần áo, lục lọi cả trên tóc (cũng còn một tí lương tâm là chưa vạch mông…).

Sáng hôm sau, chúng xỏ xâu các ông và lùa đàn bà con nít xuống một chiếc ghe (nước ngập gần đến mạn, nếu ghie bị lật chìm, không biết số phận các ông sẽ ra sao?” Tất cả đưa về nhà tù Bến Tre. Ngày hôm sau lại thêm trò lục soát nữa. Chưa hết, chúng cho ngồi xếp hàng cả dẫy ngoài thanh thiên bạch nhật để nhả hết vàng trong người trên dãy cầu, phía dưới hồ cá tra. Dĩ nhiên, là có “người” đứng canh. Khi đó, các anh tôi bị giam bên phía đàn ông nên không biết “họ” đã làm gì!

Thời gian giam đến Tết ta, họ thả con nít về trước (có lẽ cho đỡ tốn gạo dù là gạo mục, gạo mốc nhưng các bà mẹ vẫn còn bị nhốt lại để chờ người nhà đem vàng đến cứu. Lúc đó, tôi là trong tuổi vị thành niên dẫn thằng em và hai đứa cháu còn rất nhỏ làm thủ tục được cho một ít tiền làm lộ phí về nhà.

Lúc ra làm thủ tục, tôi thấy sau lưng họ là một cái cũi làm bằng kẽm gai cỡ hơn một mét khối nhưng lại nhét không biết bao nhiêu là thanh niên trong đó, đầy nhóc. Họ chỉ mặt quần xa lõn (quần dùi) và coi như bị phơi nắng. Tôi có dõi mắt tìm xem có anh sáng của tôi không hoặc là anh có thể thấy em và các cháu mình hay không? Có thể anh thấy mà không dám cất tiếng gọi tên chúng tôi. Hình ảnh đó mãi mãi tôi không bao giờ quên. Không biết số phận sẽ ra sao!! Thật là đau lòng cảnh tượng người đối với người không khác gì đối với súc vật!

Mẹ tôi lại phải đi tìm người lo lót cho chị Trang được về còn anh Trung thì phải đi tù khổ sai những nơi khỉ ho cò gáy 3 năm nữa sau khi “ra tù cải tạo” và “nghĩa vụ thủy lợi”. Nhưng khi ra tù, chúng tôi lại tiếp tục tìm đường vượt biên lần thứ hai.

LẦN VƯỢT BIỂN THỨ HAI CŨNG LÀ LẦN ĐỊNH MỆNH

Tôi không nhớ chính xác ngày ra đi nhưng có lẽ vào đầu tháng bảy, chiếc tàu khởi hành từ Mỹ Tho ra biền bằng cửa Bình Đại Bến Tre. Khi tàu ra hải phận quốc tế, chúng tôi gặp nhiều qua lại, nhiều lần kêu cứu nhưng không được tiếp cứu hay trợ giúp dù chỉ một giọt nước. Thức ăn cũng bị nước biển thấm vào cũng là mấy cũ sắn dây. Gia đình tôi có mang theo một lon sữa bò và một ít kẹo chanh để nhín nhín cho 6 đứa con gái đi cùng. Nhưng con tàu bắt đầu không điều khiển được nữa, máy hư lại hết nước. Bao nhiêu tin tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may mắn không có gì xảy ra thì chỉ vài ba ngày là đến được trại tị nạn. Có những chuyến lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát, bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt lẫn nhau để được sống còn; và cũng có những chuyến bị hải tặc tấn công cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền thông đã đăng tải.

Tôi nghĩ số phận chíếc ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô định nào? Lương thực, nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm mồi cho đại dương. Tôi có đạt được sự đổi đời như mơ ước, được sống và học hỏi ở các nước văn minh, dân chủ, tự do. Bóng đêm lại buông xuống, tôi mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu để ra dấu kêu cứu. Nhưng chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng của đại dương lạnh lùng và ghê sợ. Trên bầu trời không có bóng dáng một loài chim biển nào. Mọi người đoán là ghe đã đi lạc và cách rất xa đất liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức đầu, chóng mặt vì các mùi hôi thối của ói mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu xông lên nồng nặc, vì chỉ có một chỗ đi vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người nằm, kẻ ngồi la liệt. Mọi người quyết định đổ hết xăng lấy bình đựng nước mưa và cùng nhau cầu nguyện thánh Vincent.

Chúng tôi mấy đứa con gái rửa sơ tấm nylon rồi cầm bốn góc để hứng nước mưa và gột rửa bớt những tồn đọng sau các ngày say sóng ói mửa (Đúng là con gái, giữa cái sống nằm trong cái chết vẫn muốn mình thơm tho!!). Nhưng tối hôm đó, một anh trong tàu qua đời. Cái chết đầu tiên của anh làm cho cả tàu hốt hoảng. Mọi người khóc than, cầu nguyện cho anh. Sáng hôm sau mọi người phát hiện em trai của anh mất tích cùng với bình đựng xăng. Tôi thấy anh tôi trở nên ngơ ngác như kẻ mất hồn… Thuyền lênh đênh và biển trời mênh mông…

Trong hoàn cảnh tuyệt vọng, có lúc chúng tôi chia nhau con cá nhám nhỏ. Có ai ăn cá sống bao giờ nhưng chúng tôi đã cố gắng và tượng tượng như như ngậm kẹo cao su. Có những lúc nóng quá vì ánh nắng mặt trời nhảy xuống tàu tắm mát. Tất cả nhìn mọi người như những bộ xương “cách trí” không đủ sức để tự leo lại lên tàu. Chính anh là người đỡ mình lên trong lúc anh cũng da bọc xương! Bổng trong lúc đó, một anh đã có kinh nghiệm đi biển cho biết là bão sắp tới. Rồi sóng nhồi lên dập xuống như muốn nhấn chìm chiếc ghe nhỏ bé cũ kỹ vào lòng đại dương. Nước biển lẫn nước mưa gần tới mạn ghe, anh tôi và các thanh niên cố gắng hết sức tát nước ra ngoài mặc cho sóng gió trù dập.

Qua cơn bão sức người cũng đã kiệt, một số người lại được thủy tán. Tôi biết có một em trai đi cùng cha và chú nhưng cả hai đã vùi sâu dưới đại dương, anh an ủi và hứa sẽ nhận làm em nuôi khi lên bờ. Nhưng cũng không bao lâu sâu đó, cả em bé trai và anh tôi theo chân người đi trước. Tôi không còn nước mắt và còn sức để khóc tiễn anh về với Chúa nhưng vẫn còn cố gắng đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và kinh sáng danh cầu nguyện tiễn đưa thân xác anh về với biển cả…

Cũng trong giây phút sự chết sẽ đến với những người còn lại, tôi chợt thấy Đức Mẹ hiện đến và một tay cầm quả địa cầu và một tay kia thì chỉ hướng tàu vào bờ. Con tàu bổng dưng quay đầu lại trôi giạt vào bờ là ngày 20 tháng 8 năm 1983. Chiếc tàu được kéo vào đảo Morong Batan của Phi Luật Tân làm triển lãm của nhóm 15. Có 8 người chết trên đường đi được thủy tán. Một người vừa đến bờ kiệt sức cũng đã chết tên là Nguyễn Văn Học, bà con với anh Sáng và một người bị bội thức mà chết.  Tất cả trên chiếc tàu định mệnh 25 người đã chết hết 10 người…trong 10 người không may mắn có anh tôi là Vũ Quang Sáng, một người có lòng vị tha luôn hy sinh cho người khác.

Thấm thoát đã hơn bốn mươi năm trôi qua. Tôi không bao giờ quên người anh của tôi: VŨ QUANG SÁNG. Trong giấc mơ tôi đã gặp lại anh. Trong cuộc sống trần gian, bốn mươi năm qua tôi đã bước qua bao nhiêu ngã rẽ như chiếc thuyền trôi theo dòng nước. Có những lúc rẽ qua dòng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào giòng sông êm ả và cũng có lúc di vào lòng biển khơi đang trong cơn giông tố. Ở bất kỳ ngã rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong đời, tôi có thể quên được những phép lạ của Đức Mẹ đã cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm màu ấy.

Chị Trang và tác giả.

Đây là đài tưởng niệm thuyền nhân ở Edmonton, Alberta, Canada

Danh sách thuyền nhân tử nạn

Previous
Previous

30 Tháng 4 và Câu Chuyện Cô Gái Mang Tên Nguyễn Thị Di Tản!

Next
Next

Vĩnh Liêm – Cơn hấp hối của một đơn vị