Hải Quân Hoa Kỳ 1965 ngăn chặn tiếp tế trên biển của Bắc Việt
Stephen D. Kirby
I. LỜI GIỚI THIỆU
Chúng ta có thể cho rằng, đóng góp của Hải Quân Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam là ngăn chận đường tiếp vận trên biển từ miền Bắc vào cho Việt Cộng trong miền Nam. Con đường tiếp vận này cũng như con đường huyển thoại “Đường Mòn HCM” đã được dựng lên từ thời kháng chiến chống người Pháp (Trận Chiền Đông Dương lần thứ Nhất - 1946-1954). Hướng tây nước Việt Nam là bờ biển Đông Hải (sách Hoa Kỳ là Nam Trung Hoa – South China Sea), có nhiều hang động, vịnh, và những hòn đảo nhỏ, che dấu những con tầu chở vũ khí, quân dụng tiếp liệu xâm nhập vào miền Nam Việt Nam.
Hải trình dọc theo bờ biển cần những chiếc khinh tốc đỉnh chắc chắn như loại Swift (PCF – Patrol Craft Fast) dễ lái trên những làn sòng, giòng nước biển, chạy nhanh để tấn công. Các tầu PCF sẽ là loại tầu chính yếu cho việc ngăn chận đường tiếp vận trên biển của địch. Ngoài ra, vai trò của Hải Quân trong cuộc chiến Việt Nam cũng có thể cho là “Trận Chiến Trên Sông” vì miền Nam Việt Nam có rất nhiều sông rạch, là đường giao thông liên lạc chính yếu trong nhiều khu vực cho người dân địa phương. Đơn vị tuần tiễu trên sông của Hải Quân Hoa Kỳ tăng trưởng nhanh chóng xử dụng các chiến đỉnh (PBR – Patrol Boat River) để chống lại quân du kích cộng sản xâm nhập, có tên là Lực Lượng Lưu Động Trên Sông (Mobile Riverine Force).
Đối với miền Bắc Việt Nam tên chính thức là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republic of Vietnam), cuộc chiến này cũng như trận trước là chiến tranh tiếp vận. Đưa người, đồ trang bị tiếp liệu, chiến cụ vào miền Nam là điều tối quan trọng cho cấp chỉ huy, lãnh tụ chính quyền cộng sản Hà Nội. Việt Cộng trong miền Nam có nhiệm vụ phá hoại, gây khó khăn cho chính quyền VNCH trong việc kiểm soát người dân, cũng như đất đai trong miền Nam. Chiến thuật của quân du kích Việt Cộng là khủng bố, đe dọa, ám sát giết hại thầy giáo viên chức chính quyền VNCH để dành quyền kiểm soát dân lành. Trong những năm đầu, Việt Cộng xử dụng các loại vũ khí cũ trong thời gian kháng chiến chống Pháp (chôn, dấu từ năm 1954). Sau đó, họ được miền Bắc tiếp tế, vũ khí tối tân đầy đủ hơn. Miền Bắc vẫn phải tiếp tục tiếp tế vũ khí, quân trang, quân dụng cho binh sĩ của họ và Việt Cộng trong miền Nam, để tiếp tục cuộc chiến tranh. Chuyện đưa đồ tiếp vận vào miền Nam được thực hiện bí mật bằng đường biển và trên bộ qua hệ thống đường mòn HCM. Sự phát triển hệ thống “đường tiếp vận” này sẽ quyết định thành công hay thất bại đối với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt).
II. CÁC CỐ VẤN HẢI QUÂN
Giai đoạn cố vấn đầu tiên bắt đầu từ thập niên 1950 với sự thành lập cơ quan (bộ chỉ huy) Nhóm Cố Vấn Quân Viện - Việt Nam (MAAG-V) trong Saigon. Con số cố vấn Hải Quân Hoa Kỳ tăng nhanh sau trận chiến Hàn Quốc. Năm 1965, Hải Quân VNCH có 8.000 quân nhân (thủy thủ), vài chiếc tầu trải dài dọc theo bờ biển dài miền Nam Việt Nam. Hải Quân VNCH lúc đó chưa được nhìn nhận là một quân binh chủng, góp phần trong cuộc chiến (cần thiết). Cấp chỉ huy HQ/VNCH có thể nói là bết nhất trong Quân Đội VNCH. Đến cuối năm 1965, quân số HQVN tăng thêm 3.444 người từ Lực Lượng Hải Thuyền (Coastal Junk Forces), trước đó là một đơn vị riêng biệt. Các cố vấn Hải Quân Hoa Kỳ tổ chức thành những toán nhỏ làm việc trong các căn cứ lớn Hải Quân VNCH dọc theo bờ biển miền nam, từ Đà Nẵng cho đến An Thới nơi tận cùng phiá nam. Các cố vấn Hải Quân Hoa Kỳ phải làm việc khó nhọc, nguy hiểm với đối tác HQ/VNCH trên các tầu chiến, di chuyển trên sông và chiến thuật.
Đến năm 1969, có tất cả 564 cố vấn Hải Quân Hoa Kỳ phục vụ trong Hải Quân VNCH, sẽ giúp Hải Quân VN tăng quân số từ 5.000 trong năm 1959 lên 32.000 số tầu chiến 122 lên 1.500. Hải Quân VNCH tăng trưởng nhanh vì không có cảm tình viên Việt Cộng, rất khác biệt với Lục Quân, Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ-CIDG)
III. CHIẾN THẮNG VŨNG RÔ
Vụ vịnh Vũng Rô là một khúc quanh trong cuộc chiến. Ngày 16 tháng Hai năm 1965, Trung Úy James S. Bowers lái trực thăng UH-1B bay dọc theo bờ biển Nam Việt Nam khám phá một chiếc tầu lạ thả neo nơi bờ biển, ngụy trang rất kỹ. Vịnh Vũng Rô đá lởm chởm từ chân núi chạy ra biển. Chiếc tầu đang bốc rỡ “hàng” và viên phi công trực thăng có thể nhìn thấy người đi ra vào chếc tầu. Trung Úy Bowers gọi máy báo cáo cho HQ Thiếu Tá Harvey P. Rogers, cố vấn trưởng HQVN Vùng II Duyên Hải trong Nha Trang. Trung Tá Rogers báo cho Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Thoại biết, Ông Thoại xác nhận không có đơn vị HQVN trong khu vực, rồi yêu cầu Không Quân cho một khu trục cơ A-1 Skyraider lên bao vùng. Trông thấy chiếc khu trục, địch từ trên bong tầu và khu vực bờ biển bắn lên chiếc phi cơ. Khu trục A-1 bắn chìm chiếc tầu của địch. Qua ngày hôm sau, Không Quân lên bắn phá khu vực xung quanh, sau đó hộ tống hạm Chi Lăng II (HQ 08), cùng tầu đổ bộ hạng trung Tiền Giang (HQ 405), và tầu săn tầu ngầm Tuy Động (HQ 04), cho quân đổ bộ lên bờ biển Vũng Rô.
Tài liệu tịch thâu trên chiếc tầu bị đánh chìm, trên xác chết địch xác nhận chiếc tầu phát xuất từ miền Bắc Việt Nam. Giấy tờ trên một tử thi chứng nhận anh ta thuộc sư đoàn 338 Quân Đội Bắc Việt. Từ mấy năm trước, tình báo Hoa Kỳ đã nghi ngờ, đường dây tiếp vận trên biển của địch nhưng Vũng Rô là bắng chứng đầu tiên lấy được của địch, vận chuyển vũ khí, đạn dược, dụng cụ y khoa từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) vào miền Nam.
Chiếc tầu đóng bằng sắt thép, vừa mới sản xuất từ Trung Cộng, chuyên chở khoảng 100 tấn vũ khí, đồ tiếp liệu, dưới hầm chiếc tầu bị chìm. Món hàng này trực tiếp lien quan đến Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, không thể chối cãi được. Nhiều thùng vũ khí tối tân mới sản xuất từ Trung Cộng sơn chữ Tầu bên ngoài. Càng may mắn hơn nữa, quân đội VNCH lục soát khu rừng gần đó tìm thấy hầm chứa vũ khí đủ loại, chứng tỏ bờ biển Vũng Rô đã xâm nhập nhiều chuyến hàng. Kho chứa vũ khí ccủa Việt Cộng có khoảng: 1.000.000 viên đạn súng trường, 1.000 lựu đạn chày (như chầy giã hạt thóc…), 500 cân ANh chất nổ TNT, 2.000 viên đạn súng cối 82 ly, 500 mìn chống chiến xa, 500 đạn đại bác không dật 57 ly, 1.000 đạn đại bác không dật 75 ly, hai súng đại liên, 2.000 súng trường Mauser, 100 khẩu Carbin, 1.000 súng tiểu liên, 5 tấn dụng cụ y khoa.
Các loại đạn súng 82 ly, đại bác không dật 57, 75 ly, chưa từng được trang bị cho quân du kích Việt Cộng trước đó. Điều đó chứng tỏ, Việt Cộng trở nên lớn mạnh thay vì chỉ trang bị nhẹ để tấn công bất ngờ rồi rút nhanh, và họ càng lệ thuộc vào sự tiếp tế từ miền Bắc Việt Nam.
Phái đoàn Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, Hải Quân Hoa Kỳ, Hải Quân cùng chính quyền VNCH, cùng với báo chí đến thăm Vũng Rô. Bằng chứng rõ ràng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt) vi phạm hiệp định Genève năm 1954, cung cấp vũ khí, đồ trang bị cho quân khủng bố (VC) trong miền Nam. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tuyên bố “…điều này vi phạm Hiệp Định Quốc Tế… 1954 và 1962 mà Bắc Việt đã ký tên vào bản hiệp định. Điếu đó phá hoại nền hòa bình trong vùng Đông Nam Á… đe dọa tự do, an ninh của miền Nam Việt Nam” Lời tuyên bố này sẽ gia tăng sự can thiệp của Hải Quân Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam.
Phó Đô Đốc Paul Blackburn, tư lệnh Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ trong vùng biển Nam Trung Hoa cho rằng, việc khám phá Vũng Rô là một bằng chứng rõ ràng, miền Bắc gia tăng cường độ chiến tranh. Vụ Vũng Rô cũng làm thay đổi sự giúp đỡ của người Hoa Kỳ, Nhóm Quân Viện (MAAG-V) được nâng cấp lên Bộ Chỉ Quân Viện (MACV). Cố vấn trưởng Hải Quân Blackburn và Tướng Westmoreland kêu gọi Hoa Kỳ, VNCH gia tăng nỗ lực ngăn chặn và ngăn cản việc tiếp tế bằng đường biển của Bắc Việt.
IV. ĐẶC NHIỆM 115 (MARKET TIME - GIỜ RA CHỢ)
Hải Quân Hoa Kỳ kết hợp các đơn vị chiến thuật đặt dưới sự chỉ huy Bộ Chỉ Huy Đặc Nhiệm 115 (Market Time - Giờ Ra Chợ). trước đó là Đặc Nhiệm 71, là đơn vị tuần tiểu ở Việt Nam (Nam Việt Nam), dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ (COMSEVENTHFLT). Ngày 31 tháng Bây năm 1965, đơn vị Đặc Nhiệm dặt dưới quyền chỉ huy của Nhóm Cố Vấn Hải Quân (NAG) trong Saigon, đổi tên thành Lực Lượng Theo Dõi Bờ Biển. Cuối cùng, Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam (NAVFORV) được thành lập ngày 1 tháng Tư năm 1966, nắm quyền chỉ huy Đặc Nhiệm 115. Đơn vị theo dõi bờ biển tham dự chiến dịch Market Time (Giờ Ra Chợ).
Hành quân Market Time được thành lập ngày 11 tháng Ba năm 1965 bao gồm: Hải Quân Hoa Kỳ, Hải Quân VNCH, và đơn vị Phòng Vệ Bờ Biển, được đơn vị Không Quân của Hải Quân Hoa Kỳ yểm trợ với hai phi đội Hải Quân, 1 phi đội Phòng Vệ Bờ Biển. Đơn vị Phi Cơ Hải Quân có thể yểm trợ choá04 khinh tốc đỉnh (tầu tuần tiêẽu chạy nhanh) “Swift”, PCF, và 24 tuần tuần duyên (Coast Guard Cutters), 39 loại tầu chiến khác, phi cơ quan sát P-2 Neptune hoặc P-3. Mặc dầu nhiệm vụ chính là tuần duyên, đôi khi được yêu cầu yểm trợ hải pháo cho quân bộ binh trên đất liền qua trung gian ban Liên Lạc Hảo Pháo (ANGLICO) TQLC/HK.
Hành Quân Market Time chia bờ biển miền Nam Việt Nam làm 9 khu vực tuần tiễu, và các trung tâm theo dõi bờ biển ở Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Vũng Tầu và An Thới. Ngoài những chiến hạm lớn, lực lượng quan trọng nhất trong Đặc Nhiệm 115 là các khinh tốc đỉnh Swift hay PCF, do công ty đóng tầu Sewart Seacraft ở Louisiana đóng, dài 50 bộ, bằng nhôm, hai động cơ máy dầu có thể lên tới 28 knots. Trang bị đại liên 50 hai nòng, súng cối 81 ly, mới đầu có 54 chiếc, đặt mua thêm 50 chiếc đến cuối năm 1967, đủ số lượng hoạt động trên chiều dài 1.400 dặm bờ biển Nam Việt Nam.
Khi lên khám xét ghe tầu, thủy thủ đoàn phải xem xét giấy tờ, theo dõi những gì có trên tầu, khám phòng, và nhận diện người trên tầu. Thời gian khám xét dựa trên phân loại ưu tiên. Hạng 1, những chiếc tầu chỉ đi ngang qua, thứ 2, ghe tầu đánh cá, hoặc khu vực đánh cá. Để tránh bị địch tuyên truyền làm khó khăn dân đánh bắt thủy sản, binh sĩ Hoa Kỳ đem theo dụng cụ y khoa, thuốc men trường hợp cần đến sẽ giúp đỡ người dân.
Bản báo cáo hàng tuần của Đặc Nhiệm 115, tuần lễ từ ngày 25 tháng Hai, 1966 như sau: khám xét 4.632 ghe đánh cá (junks), 18.325 người. Ngày 2 tháng Ba, 1966: khám xét 4.116 ghe đánh cá, 16.728 người. Không một ai trong số 198 người tạm giữ, xác nhận là Việt Cộng. Ngày 27 tháng Tư, 1966: khám xét 4.686 ghe đánh cá, 18.466 người, bắt giữ 18 ghe, 110 người… Hành quân Market Time gây khó khăn cho Bắc Việt trong việc tiếp tế cho Việt Cộng trong miền Nam Việt Nam. Tướng Westmoreland cho đó là một sự thành công trong những cố gắng của người Hoa Kỳ trong suốt cuộc chiến Việt Nam.
V. ĐẠI ĐỘI LIÊN LẠC KHÔNG HẢI YỂM (ANGLICO – TQLC/HK)
Hải Pháo được biết yểm trợ cho quân bộ (hầu hết cho TQLC/HK) rất hữu hiệu, trong tầm đạn đại bác chiến hạm Hoa Kỳ ở ngoài khơi. Lực Lượng TQLC đi theo hạm đội (FMF), Đại Đội Liên Lạc Không Hải Yểm Trợ (ANGLICO) thành lập ở Việt Nam trong tháng Năm 1965. Đơn vị tinh nhuệ này là đơn v TQLC duy nhất làm việc cho cơ quan MACV từ năm 1966. Lúc đó, FMF ANGLICO và tiểu ban SU#1 có 26 sĩ quan TQLC, 253 binh sĩ, và 10 sĩ quan Hải Quân trong các Toán Cố Vấn Hải Quân từ Đà Nẵng xuống đến An Thới (Phú Quốc). Các toán liên lạc Không Hải Yểm (ANGLICO) làm việc trên cả bốn Vùng Chiến Thuật VNCH, lin lạc Không Hải Pháo yểm trợ cho tất cả các dơn vị Đồng Minh: Hoa Kỳ, VNCH, Đại Hàn, Australia and New Zealand. Toán liên lạc thường làm việc với phi cơ quan sát L-19 bay bao vùng, chở theo một SQ đánh dấu mục tiêu ngồi ghế sau. Tiền sát viên trên phi cơ quan sát L-19 có hai lợi điểm: có thể quan sát một khu vực rộng lớn, nhìn rõ hơn và liên lạc truyền tin với quân trên bộ và đài tác xạ trọng pháo trên chiến hạm Hoa Kỳ dễ dàng hơn. Nửa năm sau 1966, đơn vị ANGLICO được trao nhiệm vụ 966 lần, 12.075 mục tiêu, trọng pháo từ các chiến hạm Hoa Kỳ bắn 231.001 viên đạn đại bác, phá hủy 8.662 công sự của đch, gây tổn thất cho 2.583 địch quân chết, 1.014 bị thương, và 229 tiếng nổ phụ.
VI. ĐẶC NHIỆM 116 (GAME WARDEN - NGƯỜI THEO DÕI TRẬN ĐẤU)
Đầu năm 1964, trước khi quân đội Hoa Kỳ sang Việt Nam tham chiến, Hải Quân Đại Tá Phil H. Bucklew theo lệnh của Đô Đốc Harry D. Felt tư lệnh Thái Bình Dương tham dự chuyến thăm dò Việt Nam tìm hiểu làm cách nào để ngăn chặn sự xâm nhập, chuyển vận vũ khí, đồ tiếp liệu vào miền Nam bằng đường biển. Bucklew cùng với một ban tham mưu sĩ quan Hải Quân cấp bậc nhỏ xuống thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long, phỏng vấn hơn một chục sĩ quan VNCH cùng với cố vấn Hoa Kỳ của họ. Tại biên giới với Cambodia, Bucklew chứng chiến Việt Cộng tỉnh bơ chở đồ tiếp liệu bằng thuyển tam bản trên đất Miên, mặc dầu đất Miên cũng như Lào trung lập. Trong bản báo cáo cho vị tư lệnh Thái Bnh Dương, Bucklew viết lại những cố gắng xâm nhập của quân cộng sản, cho rằng quân đội VNCH chống lại không hiệu qủa và không đủ, đề nghị việc ngăn ngừa Việt Cộng (nhận, vận chuyển đồ tiếp liệu) cần phải thiết lập “nút chặn” dọc theo bờ biển, phối hợp với các tầu tuần tiễu trên những giòng sông dọc theo biên giới Miên, ngoài sông Cửu Long và sông Bassac. bản “Báo Cáo Bucklew” đề nghị thêm: giờ giới nghiêm, nút chặn và tuần tiễu (trên sông rạch).
Hải Quân Hoa Kỳ chú trọng hành quân biển, ngăn chận tầu bè Bắc Việt xâm nhập từ biển vào nên bỏ qua những điều báo cáo, khuyến cáo của Bucklew. Sau khi Hải Quân Hoa Kỳ tung ra hành quân Market Time, cấp chỉ huy chờ đợi kết qủa, không để ý đến báo cáo của Bucklew. Kết qủa, cả Bắc Việt lẫn Việt Cộng đều làm đúng như những gì Bucklew tiên đoán: xử dụng những giòng sông nhỏ dọc theo biên giới Miên, di chuyển đồ tiếp liệu đến những khu vực lơ là việc chống xâm nhập. Do đó, Việt Cộng tàng chứa được đồ tiếp liệu cần thiết để phóng ra trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân năm 1968, trước khi việc ngăn chận trở nên thường xuyên. Tuy vậy, báo cáo Bucklew được xữ dụng làm khung sườn hoạt động cho các toán biệt kích SEAL trong năm 1966, và sự thành lập các Đội Tuần Tiễu Trên Sông trong Đặc Nhiệm 116 Hành Quân “Game Warden” Đơn vị Tuần Tiễu trên Sông (PBR) trong Đặc Nhiệm 116, làm nhiệm vụ đưa các toán biệt kích SEAL xâm nhập và triệt xuất. Trước khi đơn vị SEAL có tầu đặc biệt cho họ cùng với thủy thủ đoàn lái tầu. Kết qủa có 5 trung đội Người Nhái (SEAL) Hoa Kỳ hoạt động trong vùng đồng bằng Cửu Long (Vùng IV Chiến Thuật).
Đặc Nhiệm 116 hiện diện trên giấy tờ từ ngày 18 tháng Mười Hai năm 1965, nhưng lúc đó Hải Quân Hoa Kỳ chưa có loại tầu chiến nào có thể chạy trên các giòng nước đục, đầy lục bình, cánh bẻo dài tổng cộng 3.000 dặm, những giòng suối, nhánh sông nhỏ. Loại tầu tuần tiễu chạy trên sông PBR đóng bằng fiberglass (rất nhẹ) dài 31 bộ, ngang 11 bộ hai động cơ chạy dầu mạnh 220 (ngựa) có thể chạy với tốc độ 25 knots. Mỗi tầu PBR trang bị radar Raytheon 1900 và hai máy truyền tin AN/VRC 46, súng đại liên 50, M-60 và súng phóng lựu xung quanh tầu. Có tất cả gần 300 tầu PBR xử dụng trong trận chiến Việt Nam.
Hành quân Game Warden có đơn vị “không trợ” cơ hữu, Sói Biển (Seawolves), Phi Đội 3 Trực Thăng Tấn Cộng Nhẹ của Hải Quân Hoa Kỳ (HAL-3), sẵn sàng bay tiếp cứu các tầu PBR xử dụng hỏa tiễn và đại liên. Có tất cả 9 phi đội HAL hoạt động dưới đồng bằng Cửu Long, mỗi phi đội có hai trực thăng võ trang UH-1B (Phi đội 2 có 4 trực thăng hoạt động trong khu vực Đặc Khu Rừng Sát). Thời gian sau đó, “Không Trợ” được thêm phi đội Ngựa Con Đen (Black Ponies) VAL-4, xử dụng loi phi cơ có cánh OV-10 Bronco. VAL-4 trang bị 4 đại liên 7.62 ly, đại bác 20 ly và 8 ổ hỏa liễn Zuni 19 qủa 2,75 inches. Có tất cả 15 phi cơ OV-10 hoạt động dưới vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Những nhánh sông rạch nhỏ, kênh đào từ biên giới Miên vào miền Nam là lộ trình giao thông chuyển vận chính yếu quan trọng của Việt Cộng. Nhiều kênh đào có bề ngang hẹp hơn 15 bộ, rất nguy hiểm cho thủy thủ đoàn 5 người (tầu PBR), kẻ thù rất gần… Phó Đô Đốc Kenneth L. Veth Hải Quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, rồi đến Phó Đô Đốc Elmo R. Zumwalt (au này lên chức Tư Lệnh Hải Quân Hoa Kỳ) phóng ra hành quân SEALORD (South East Asia Lake Ocean River Delta) bao gồm cả ba Đặc Nhiệm 115, 116, 117.
VII. ĐƯỜNG SIHANOUKVILLE (1965-1970)
Sự thành công của hành quân Market Time qúa rõ ràng, cắt đứt mọi chuyến tiếp tế từ miền bắc vào miền nam Việt Nam bằng đường biển. Tuy nhiên ông Hoàng Norodom Sihanouk chấm dứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ trong năm 1965, sau khi Hoa Kỳ thả bom B-52 các căn cứ điạ của lính Bắc Việt, Việt Cộng trên đất Cambodia. Riêng ông Hoàng đã thù ghét VNCH từ lâu, khi Tổng Thống Diệm cho lệnh ám sát Sihanouk năm 1959, và tin tưởng miền Bắc Sẽ chiến thắng cuộc chiến Việt Nam. Ông ta muốn liên kết với Hà Nội cho phép quân cộng sản xử dụng hải cảng Sihanoukville và đường xá trên đất Miên chở đồ tiếp tế cho quân cộng sản dọc theo biên giới hướng đông Cambodia.
Bắc Việt không thể nào cho tầu, thủy thủ băng qua các nút chặn trên biển của Hải Quân Hoa Kỳ. Vấn đề này được giải quyết sau khi Sihanouk bang giao tốt với Trung Cộng. Ông ta cho phép tầu Trung Cộng, Nga Sô ra vào hải cảng, bốc rỡ hàng. Lẽ dĩ nhiên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ sung sướng trả tiền cho mọi chi phí, bốc rỡ “hàng hóa”, nhà kho, vận chuyển đến các căn cứ điạ của Việt Cộng. Ngoài ra cộng sản Việt Nam mua gạo, thực phẩm khô (cá khô) của các đại lý người Cambodia để nuối quân. Nhiều phân tích gia CIA cho rằng trong giai đoạn khó khăn của lịch sử, cơ quan đã không nhận ra mức độ quan trọng của hải cảng Sihanoukville. Trong hai năm 1969, 1970, hơn 13.000 tấn vũ khí, 19.000 tấn quân dụng và 209.000 tấn gạo, xăng dầu đã được đưa vào miền Nam Việt Nam. Số lượng này gần gấp đôi số đưa vào qua hệ thống đường mòn HCM.
Cuộc đảo chánh lật đổ Sihanouk khi ông ta qua thăm Âu châu trong tháng Ba năm 1970, đưa Lon Non lên nắm quyển ở Cambodia. Chuyện này làm cộng sản Bắc Việt chới với (không xử dụng được hải cảng Sihanoukvile và đất Cambodia). Lon Nol ra lệnh không cho Bắc Việt xử dụng hải cảng nữa và quân đội Bắc Việt / Việt Cộng phải ra khỏi Cambodia trong vòng 72 gìờ đồng hồ (3 ngày).
VII. ĐẶC NHIỆM 117 (LỰC LƯỢNG LƯU ĐỘNG TRÊN SÔNG)
Bắc Việt ra lệnh cho Việt Cộng trong miền nam, xây hầm cement để chứa đồ tiếp liệu đưa vào miền nam qua ngã Sihanokville và đường mòn HCM. Họ xây trên những cù lao (như đảo nhỏ trên sông) và những chỗ bí mật khác trong khắp vùng đồng bằng Cửu Long. Hải Quân, Lục Quân Hoa Kỳ nhận ra điều đó, thành lập Đặc Nhiệm 117 phối hợp giữa HQ/HK, HQ/VNCH và Điạ Phương Quân, tiểu đoàn 2 sư đoàn 9 BB/HK, đơn vị Xung Kích Mike Force LLĐB. Nhiệm vụ dành cho Đặc Nhiệm 117, lục soát, phá hủy các căn cứ, kho tiếp vận của địch, những nơi đồng lầy, lau sậy, tầu bè Hải Quân không thể vào được. Khởi thủy đơn vị có tên là Lực Lượng Trôi Nổi trên Đồng Bằng Cửu Long (MDAF), thành lập ngày 1 tháng Chín năm 1966 dổi tên chính thức Lực Lượng Lưu Động Trên Sông. Hải Quân Hoa Kỳ cung cấp tầu chở quân, chạy chậm nhưng trang bị hỏa lực mạnh, bọc thêm lớp thép chống đạn, chở thêm quân Xung Kích Mike Force hay bộ binh. Quân xung kích sẽ đổ bộ, tấn công căn cứ của địch, nếu cần sẽ được hỏa lực trên tầu, súng cối 81 ly yểm trợ, hoặc không trợ với trực thăng võ trang UH-1B hoặc OV-10 Bronco. Đến năm 1970, Lực Lượng Lưu Động Trên Sông có 3.700 quân xung kích (tấn công lên bờ), 184 tầu chiến, chở quân.
VIII. KẾT LUẬN
Hải Quân Hoa Kỳ và Hải Quân VNCH đóng vai trò bảo vệ tự do cho người dân miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ: huấn luyện thủy thủ lái tầu, chiến thuật tác chiến (của Hải Quân), ngăn chận tầu tiếp tế, xâm nhập của địch. Tìm kiếm, tấn công các căn cứ, kho tiếp vận của địch để tiêu hủy, phá hoại. Hải Quân đã góp phần trong quân sử Cuộc Chiến Việt Nam.
Theo tài liệu:
Stephen D. Kirby, “The US Navy in Vietnam 1965”, Radix Press 1965, pages: 222 – 234.
Dallas, TX. 23 May, 2023
vđh