Trận chiến trên không - 1965

John F. Guilmartin, Jr.

Năm 1964 qua đi, nhường chỗ cho năm 1965, trận chiến trên không trong vùng Đông Nam Á châu đã thay đổi từ căn bản ở cường độ và mức độ rộng lớn. Không lực đóng góp một phần quan trọng chiến lược trong trận chiến. Để hiểu rõ hơn vai trò quan trọng của không lực ngay từ đầu. Người Pháp đã xử dụng sức mạnh giới hạn của không quân vào việc vận chuyển, tấn công, cho đến khi thua trận Điện Biên Phủ trong mùa xuân năm 1954 và trên vùng cao nguyên trung phần.

Hiệp định Genève trong tháng Bẩy năm 1954 chia dôi hai miền Bắc, Nam Việt Nam theo sau là một khoảng thời gian chính trị “buồn ngủ”, rất khó cho rằng đó là một chính quyền, chính quyền miền Bắc rõ ràng hơn trong việc kiểm soát người dân. Trong thời gian mấy năm đầu 1956-1957, đổ máu nơi miền Bắc gây căm phẫn vi chương trình cải cách ruộng đất, tình hình chính trị trong miền nam thành công hơn.

Sau khi miền Bắc đã ổn định chính trị, giới lãnh dạo quay trở lại chuyện “thôn tính miền Nam” danh từ họ dùng là “thống nhất đất nước” Câu hỏi đặt ra cho họ là “làm thế nào?” và “khi nào?” Trong nội bộ đảng, vấn đề này sẽ bắt đầu bằng bạo lực, ám sát, tuyên truyền, khủng bố và chiến thuật du kích. Chuyện đó sẽ dẫn đến một trong hai kết qủa (sẽ xẩy ra): Nội bộ chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa xụp đổ sau một thời gian chống đỡ, hoặc một đạo quân cách mạng được cấu tạo, để tấn công bằng võ lực trên chiến trường.

Chính quyền Nam Việt Nam dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúc ban đầu thành công. Bài toán thay đổi kể từ năm 1959, khi chính quyền Hà Nội bị người dân chống đối “Nhận Diện Kẻ Thù Giai Cấp Xã Hội” và “Sửa Sai Lỗi Lầm” (cải cách ruộng đất), quyết định yểm trợ sự nổi dậy trong miền Nam Việt Nam, bằng người và vật liệu từ miền Bắc, bắt đầu với số lượng ít sau đó gia tăng.

Sức mạnh Không Quân Hoa Kỳ lúc mới đầu chỉ đóng góp nhỏ, phần còn lại của Không Quân Pháp (để lại miền Nam Việt Nam) không đáng kể. Rồi thì cộng sản (miền Bắc) gia tăng yểm trợ các hoạt động trong miền Nam, người Hoa Kỳ đáp lại bằng cách, gửi các cố vấn Lục Quân sang giúp VNCH, Phòng Hành Quân Đặc Biệt và các Không Đoàn Cảm Tử của Không Quân được trao nhiệm vụ huấn luyện (Sĩ Quan) Không Quân Nam Việt Nam. Đồng thời yểm trợ hỏa lực cho quân đội VNCH. Đến cuối năm 1961, các phi đoàn trực thăng Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến / HK được xử dụng di chuyển (trực thăng vận) các đơn vị bộ binh VNCH. Về chiến thuât, trực thăng vận đã chứng minh rất hiệu qủa, được áp dụng rộng rãi sau này… nhưng trực thăng không được xem là sức mạnh của Không Quân, của Lục Quân đúng hơn (Bộ Binh).

Chính quyền Kennedy nhúng tay vào Việt Nam thận trọng, không muốn nhận trách nhiệm “mất Việt Nam” không muốn phải đưa quân đội vào trận chiến trên bộ trong vùng Đông Nam Á. Tuy vậy, trước áp lực càng ngày gia tăng của cộng sản, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ (trên bộ) là điều cần thiết. Cuộc đảo chánh, giết hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 2 tháng Mười Một năm 1963, tiếp theo là vụ ám sát Tổng Thống John F. Kennedy chưa đầy một tháng, tình hình chính trị miền Nam Việt Nam trở nên rối loạn.

Ở Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson lên nắm quyền điều hành quốc gia, ông ta được hưởng chính sách, nhân viên từ cố Tổng Thống Kennedy để lại. Theo nhà báo David Halberstam, “họ là những người tài giỏi nhất trong những người giỏi” Hồ sơ, bằng cấp đầy đủ, tốt nghiệp từ trường danh tiếng, nhưng thiếu kinh nghiệm thực tế. Thí du, bộ trưởng Quốc Phòng Robert Strange McNamara đã phục vụ trong Không Quân, chuyên viên thống kê (toán học) trong trận Thế Chiến Thứ Hai, có lẽ ông ta là người duy nhất trong nhóm cố vấn đã từng mặc quân phục, phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ. Họ nhìn đám quân nhân (tướng lãnh) như mình là ông chủ, không biết tiếp cận để lấy ý kiến. Ngay cả Tỗng Thống Johnson cũng xem thường họ.

Tổng Thống Johnson chú ý vấn đề chính trị nội bộ, sự kiện thời gian bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ sắp tới chưa đến một năm. Đối thủ chính đảng Cộng Hòa là Thượng Nghị Sĩ Barry Goldwater (Arizona), người chủ trương xử dụng quân đội tại Việt Nam. Cho đối thủ Goldwater là “đại diều hâu”, Johnson cho mọi người thấy mình yêu chuộng hòa bình. Hình ảnh “bồ câu” này bị giao động trước các biến cố xẩy ra ở Việt Nam, chuyện ông Diệm bị lật đổ và bị giết hại, quân đội VNCH có nguy cơ thua trận. Tổng Thống Johnson tìm cách áp lực chính quyền Hà Nội phải bỏ rơi Việt Cộng (quân Giải Phóng Miền Nam - PLAF). Người Hoa Kỳ gia tăng sức mạnh Không Quân trong miền Nam Việt Nam, bắt đầu với phản lực thả bom hạng trung B-57 (Canberra), chiến đấu cơ F-100 Super Sabre và các loại phi cơ vn tải khác.

Chính quyền Johnson tạo áp lực sơ khởi bằng những trận tấn công bất ngờ các mục tiêu dọc theo bờ biển miền Bắc do quân Biệt Hải đảm trách, và hải quân Hoa Kỳ (hạm đội 7) tuần tiễu trong khu vực vịnh Bắc Bộ (Tonkin), dung máy móc điện tử nghe ngóng, dò thám Hải Quân Bắc Việt. Bắc Việt phản ứng, xử dụng tầu phóng thủy lôi, chạy nhanh tấn công trong hai ngày 2 và 4 tháng Tám năm 1964. Chuyện này được gọi là Biến Cố Vịnh Bắc Việt.

Johnson trả đũa bằng Hành Quân Pierce Arrow (Mũi Tên Xuyên Thủng), phi cơ Hải Quân Hoa Kỳ cất cánh từ hàng không mẫu hạm oanh kích căn cứ Hải Quân Bắc Việt, xuất phát cho các tầu phóng thủy lôi, các kho chứa xăng dầu gần thành phố biển Vinh. Trong số 64 phi cơ tham dự trận tấn công, 4 chiếc bị cao xạ phòng không bắn rơi, 1 phi công tử trận, 1 bị bắt, người tù binh chiến tranh (POW) đầu tiên trong trận chiến Việt Nam.

Trên phương diện chính trị, Tổng Thống Johnson trình cho Quốc Hội Giải Pháp Vịnh Bắc Bộ, trao quyền cho ông ta “xử dụng mọi sức mạnh quân đội để đánh bại mọi cuộc tấn công” các đơn vị Hoa Kỳ. Giải Pháp Vịnh Bắc Việt được cả hai viện Quốc Hội thông qua ngày 10 tháng Tám với đại đa số phiếu tán đồng. Phiá Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Bắc Việt), bộ Chính Trị quyết định đưa các đơn vị chính quy Quân Đội Nhân Dân (PAVN) vào miền Nam Việt Nam khoảng một tuần lễ sau. Đồng thời, viên chức chính quyền Hoa Kỳ, Lào thảo kế hoạch cho Không Quân, Bộ Binh Lào, Nam Việt Nam tấn công đường xâm nhập HCM trên đất Lào vào miền nam. Khoảng giữa tháng Mười, quân đội Lào được Không Lực Hoàng Gia, Nam Việt Nam yểm trợ tấn công vào thị trấn Tchepone không dem lại kết qủa.

Trong khi đó, trận chiến tranh trong miền nam gia tăng cường độ. Ngày 1 tháng Mười Một, VC pháo kích bằng súng cối vào phi trường Biên Hòa phá hủy 5 phản lực B-57, hư hại nặng 8 chiếc khác. Ngày 2 tháng Mười Hai, quân VC tấn công lớn nhất trong cuộc chiến, với hai trung đoàn, hai tiểu đoàn chủ lực điạ phương, tăng cường lực lượng du kích tấn công làng công giáo Bình Giả trong tỉnh Phước Tuy. Trận đánh kéo dài cho đến ngày 3 tháng Giêng kết qủa VNCH b thiệt hại nặng hai tiểu đoàn tinh nhuệ (TQLC, ND, BĐQ?)

Mùa thu năm 1964, hai yếu tố chính trị xẩy ra có ảnh hưởng lớn cho cuộc chiến Việt Nam đặc biệt trận chiến trên không. Leonid Brezhnev lên thay Nikita Khrushchev làm Thủ Tướng kiêm Bí Thư Thứ Nhất đảng cộng sản Nga Sô ngày 15 tháng Mười. Một tháng sau, bộ Chính Trị Nga Sô chấp thuận gửi cố vấn quân sự qua giúp Bắc Việt, kể cả dàn hỏa tiễn điạ-không SA-2 điều khiển bằng radar. Hệ thống phòng không tối tân nhất tình báo Hoa Kỳ được biết. Hỏa tiễn điạ không SA-2 được điều khiển từ trong hầm dưới đất, được biết có tầm hoạt động xa, đường bán kính 17 dặm, có hiệu qủa trên cao độ 50.000 bộ. Tầm hiệu qủa gần, đường bán kính 5 dặm, cao 3000 bộ. Hỏa tiễn SA-2 có chiều dài 35 bộ (hơn 10m), tốc độ bay Mach 3.5, nặng 130kg. Theo đà cuộc chiến, hỏa tiễn SA-2 sau này có tầm bắn đường bán kính 25 dặm, cao độ 82000 bộ.

Yếu tố chính trị thứ hai, ngày 4 tháng Mười Một, Tổng Thống Lyndon Johnson đánh bại Barry Goldwater với đa số phiếu trong cuộc chay đua vào tòa Bạch Ốc. Xong việc, ông ta bỏ mặt nạ bồ câu, thay đổi chiều hướng, mở rộng chiến tranh (thực ra, chính quyền của Johnson đã soạn thảo kế hoạch gia tăng chiến tranh từ sáu tháng trước.)

Với nhận định rõ ràng, sự sống còn ca miền Nam Việt Nam đang treo trên đầu sợi chỉ, áp lực chính trị đã giảm (thắng cuộc bầu cử Tổng Thống), chính quyền Johnson chọn giải pháp chiến lược (hai mũi dùi). Mủi thứ nhất, đưa quân bộ binh sang Việt Nam để củng cố tình hình quân sự trong miền Nam Việt Nam. Mũi thứ hai. Gia tang cường độ thả bom miền Bắc để cho cấp lãnh đạo Hà Nội suy nghĩ lại, phải ngừng tiếp tế, nuỗi dưỡng cuộc chiến trong miền Nam, qua chiến dịch thả bom Sấm Rền (Rolling Thunders). Trong tháng Giêng, chính phủ Thailand chấp thuận cho Không Quân Hoa Kỳ xử dụng phi trường (Nakhon Phanom) trên đất Thái để oanh kích miền Băc Việt Nam.

  Chiến dịch thả bom miền Bắc Sấm Rền cần thời gian để chuẩn bị, trong khi đó trong miền nam, quân VC tiếp tục tấn công, pháo kích súng cối vào căn cứ Không Quân Pleiku sáng sớm ngày 7 tháng Hai, gây thiệt hại đáng kể.

Chính quyền Johnson trả đũa bằng Hành Quân Phi Tiêu Lửa (Flaming Dart), phản lực cơ Hoa Kỳ phát xuất từ các hàng không mẫu hạm Coral Sea, Hancock và Ranger oanh kích các cơ sở, căn cứ, doanh trại nơi hướng bắc khu vực phi quân sự trong khoảng 15 dặm. Thời tiết hôm đó xấu, phi cơ Hoa Kỳ trên hàng không mẫu hạm Ranger phải hủy bỏ các phi vụ tấn công. Hành Quân Phi Tiêu Lửa 2 tiếp theo ngày 11, thời tiết miền Bắc Việt Nam vẫn xấu nên không đem lại kết qủa như ý muốn.

Chiến dịch Sấm Rền do các phi cơ chiến đấu Không Quân phát xuất từ các căn cứ trên đất Tháiland, và trong miền Nam Việt Nam. Các chiến đấu cơ Hải Quân tham dự phát xuất từ các hàng không mẫu hạm trong Đặc Nhiệm 77 trong vịnh Bắc Bộ. Chiến dịch kéo dài một thời gian, được tăng cường nhiều loại phi cơ trang bị máy móc điện tử phá sóng radar, hoặc báo động sớm cho các phi cơ Hoa Kỳ. Các phi cơ tiếp tế xăng trên không KC-135 cần thiết cho các loại phi cơ của Không Quân, vì các phi trường ở Thailand cách xa miền Bắc Việt Nam. Thêm vấn đề ngộ nhận, các phi cơ phát xuất từ Thailand nằm trong Không Lực 13 (cũng như Không Lực 7, Hạm Đội 7), bộ tư lệnh nằm trong căn cứ Không Quân Clark ở Phillipines, đã có lần nằm dưới quyền chỉ huy Không Lực 7 bộ tư lệnh trong Tân Sơn Nhất.], bao gồm cả sư đoàn 2 Không Quân/HK, chỉ huy hành quân tất cả mọi hoạt động ngoài miền Nam Việt Nam.

Các đơn vị cấp cứu Không Quân Hoa Kỳ trong miền nam và ở Thailand trang bị trực thăng HH-43 cấp cứu các phi công bị bắn rơi, nhưng khả năng hoạt động loại phi cơ này bị giới hạn trong đường bán kính 75 dặm. Các trực thăng cấp cứu HH-43 được tăng cường Dịch Vụ Cấp Cứu Hàng Không SA-16 (loại thủy bộ có thể đáp xuống mặt biển cứu phi công) từ trận chiến Hàn Quốc, làm trung tâm Điều Không, Liên Lạc bay ngoài không, hải phận miền Bắc Việt Nam.

Hải Quân Hoa Kỳ xử dụng loại trực thăng HS-2, SH-3 trên hàng không mẫu hạm cho việc cấp cứu. Cả hai trực thăng cấp cứu Hải, Không Quân được phi cơ chiến đấu cánh quạt (bay chậm cho thêm yếu tố chính xác) A-1 Skyraider hộ tống thuộc phi đoàn Không Quân Hành Quân Đặc Biệt đóng trong căn cứ Không Quân bên Thailand.

Các phi cơ oanh kích miền Bắc được xử dụng nhiều nhất là loại phản lực F-105, động cơ bền bỉ, mang được nhiều bom đạn, thêm khả năng không chiến với hỏa tiễn không-đối-không có thể bắn từ xa khi chưa nhìn thấy phi cơ địch. Trong tất cả các loại phi cơ được xử dụng trong chiến dịch Sấm Rền, F-105 Thần Sấm (Thunderchief), F-4 Con Ma (Phanton), và Hải Quân F-8 (Crusader), chỉ oại F-105 và F-8 trang bị đại bác để tấn công các mục tiêu trên mặt đất. Cc phi cơ Hoa Kỳ đều trang bị radar hướng dẫn thả bom AIM-7 Sparrow và hỏa tiễn tm nhiệt trường hợp không chiến xẩy ra AIM-9 Sidewinter. Phi cơ chính yếu Hải Quân Hoa Kỳ xử dụng trong chiến dịch Sấm Rền là loại A-4 (Skyhawk), trang bị hai đại bác 20ly trên đôi cánh.

Phia Bắc Việt, chỉ có một số ít phản lực cũ do Nga Sô cung cấp, MiG-15, MiG-17, các phi công Băc Việt được Trung Cộng huấn luyện. Loại cũ MiG-15 được sản xuất đầu thập niên 1950, không thấy nhiều trên không phận Bắc Việt. Mig-17 trang bị hai đại bác 23ly, 1 đại bác 37ly, bay lượn dễ điều khiển, đối thủ đáng ngại trong các trận không chiến. Bắc Việt được viện trợ loại mới nhất, tối tân nhất của Nga Sô MiG-21, phi cơ ngăn chặn (không chiến), tốc độ Mach 2.5 trang bị hai hỏa tiẽn tầm nhiệt Atoll. Nhỏ, gọn động cơ tốt không ra khói rất khó khám phá, dùng để “phục kch” đội hình phi cơ thả bom Hoa Kỳ, Cả hai loại phi cơ MiG-17, MiG-21 được điều khiển từ trung tâm radar “theo dõi, ngăn chặn” dưới đất. Với kỹ thuật hiện đại này, chiến thuật ngăn chặn (không chiến) được điều khiển bằng radar, thay vì phi công. Các phi cơ MiG-21 bay dưới cao độ thấp, thấp hơn radar của phi cơ Hoa Kỳ, rồi bất ngờ lấy cao độ tấn công hợp đoàn phi cơ thả bom của Hoa Kỳ, nặng nề vì đem theo bom. Chiến thuật phục kích này rất hiệu qủa.

Bắt đầu từ đầu năm 1965, có tất cả ba trận tấn công bằng Không Quân trong khu vực Đông Nam Á thuộc điạ cũ của người Pháp. Trận đầu tiên xử dụng Không Quân tấn công trong miền Nam Việt Nam, tập trung yểm trợ quân bộ binh tấn công, hoặc xử dụng không quân chiên thuật TACAIR bắn phá các căn cứ, kho tiếp vận, trại dưỡng quân của địch. Bắt đầu từ cuối tháng Sáu, các trận oanh kích căn cứ địch, phối hợp với pháo đài bay B-52 từ đảo Guam, Bộ Chỉ Huy Không Quân Chiến Lược (SAC).

Ngoài ra phi cơ vận tải C-123K thả thuốc khai quang (chất độc da cam Orange Agent), phá rừng, không cho cộng sản trú ẩn. Quân cộng sản chống đối nhưng vẫn để cho phi cơ rải thuốc khai quang bay ngang qua… đỡ cho họ bệnh sốt rét.

Một điểm đặc biệt trong trận chiến trong miền Nam Việt Nam, sự đóng góp quan trọng của phi cơ Điều Không Tiền Tuyến (FAC-Phi cơ quan sát). Phi cơ cánh quạt một động cơ O-1 “Chim Chó” (chim nhìn xa, chó đánh hơi), xử dụng hỏa tiễn khói trắng đánh dấu mục tiêu cho phi cơ chiến đấu oanh kích. Ngoài ra đem theo máy vô tuyến liên lạc với quân bộ binh trên mặt đất, yểm trợ cho quân bộ VNCH với sự hiện diện của cố vấn Hoa Kỳ.

Phi cơ có cánh yểm trợ cho các cuộc hành quân không vận mở đầu cho kỷ nguyên chiến tranh mới. Trong tháng Mười Một, hành quân Lưỡi Lê Sáng Bóng (Shiny Bayonet) cho thấy sự yểm trợ hữu hiệu của Không Lực Hoa Kỳ trong cuộc hành quân không vận vào thung lũng Ia Drang, bao gồm B-52 yểm trợ, thả bom trên bãi đáp X-Ray.

Sư đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận (1st Air Mobile) đưa sang vùng cao nguyên Việt Nam trong tháng Mười, Lục Quân Hoa Kỳ khám phá ra, thiếu sót trong việc ước lượng số lượng nhiên liệu JP-4 cho phản lực, cho những cuộc hành quân không vận quy mô cấp lớn, phải nhờ Không Quân phi cơ C-130 chở 500 gallons nhiên liệu lên Pleiku, cho sư đoàn 1 Không Kỵ xử dụng. Trong tháng Mười Một, lúc cường độ trận đánh trong thung lũng Ia Drang lên cao, Không Quân tiếp tế mỗi ngày 186 tấn tiếp liệu cho sư đoàn 1 Không Kỵ, trong đó 58% là xăng dầu.

Trận chiến trên không thứ hai trên đất Lào dọc theo đường mòn HCM, ngăn chặn quân đội Băc Việt đưa quân, vũ khí, đồ trang bị tiếp vận vào miền Nam Việt Nam. Chiến dịch thả bom trên đất Lào có tên là “Thùng Rượu Lăn” (Barrel Roll), bắt đầu là những trận oanh kích nhỏ từ tháng Mười Hai năm 1964, đó là cách “gửi thông điệp” cho Hà Nội biết phải chấm dứt chuyện đưa quân vào miền Nam giúp quân VC. Đến mùa hè năm 1965, chiến dịch Thùng Rượu Lăn được đổi tên sang “Hổ Thép” (Steel Tiger) trong cuối tháng Ba, ngoại trừ các trận oanh kích nơi hướng bắc đèo Nape – đã gia tăng theo chiến dịch Sấm Rền (Rolling Thunders), tăng cường thêm các loại phi cơ F-105 “Thần Sấm” (Thunder Chief), F-4 “Con Ma” (Phantom) phát xuất từ các phi trường bên Thailand. Được phi cơ điều không (thám thính) FAC (O-1) phát xuất từ miền Nam Việt Nam, quan sát tìm các đoàn xe Molotova Bắc Việt đang di chuyển trên đường, báo cho phi cơ oanh kich, các kho tiếp tiệu, binh trạm để nghỉ ngơi… Hỏa lực phòng không Bắc Việt tạo thành một màng lưới rất dầy, và đến cuối năm khu vực đèo Mụ Già (từ miền Bắc sang đất Lào), thị tấn Tchepone là hai mục tiêu có hỏa lực phòng không mạnh nhất trong vùng Đông Nam Á, ngoại trừ thủ đô Hà Nội và bờ biển miền trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, nơi băng qua vĩ tuyến 17 vào miền Nam). Theo tài liệu Bắc Việt hệ thống phòng không bảo vệ đường mòn HCM gia tăng từ 8 ồ súng đại bác phòng không với 900 quân đầu năm 1965, đến cuối năm tăng lên 14 ổ súng và 1825 quân.

Một huyền thoại trong cuộc chiến Việt Nam là đường mòn HCM, con đường huyết mạch đưa người, chiến cụ vào miền Nam Việt Nam. Cộng sản Bắc Việt, bằng mọi giá phải bảo vệ con đường, cho các đoàn xe chở quân, vũ khí, đạn dược lưu thông, theo tài liệu lịch sử Quân Đội Nhân Dân đưa ra năm 1994.

Theo sự ước tính, đồ tiếp vận được đưa vào miền Nam gia tăng đều đặn, cho đến tháng Chín mức độ chuyển vận lên đến từ 3 đến 6 tấn quân dụng mỗi ngày, do một đạo quân khoảng 6000 dân công làm việc, cùng với 4000 quân lái xe, bảo vệ. Tình báo Mỹ-Việt cho biết, con đường được sửa chữa, nâng cấp, phát triển theo thời gian. Tài liệu lịch sữ Bắc Việt nói rằng, mỗi tháng trung bình họ chuyển được 366 tấn quân dụng vào thẳng chiến trường miền Nam. Thực ra, tình báo Mỹ-Việt đã đánh giá thấp sự quan trọng, khả năng quân đội Bắc Việt trên đường HCM.

Trong mùa thu năm 1965, tình báo Hoa Kỳ biết được Bắc Việt đưa đồ tiếp liệu vào miền nam băng qua khu vực phiá nam nước Lào, quân đội Hoa Kỳ mở chiến dịch Tiger Hound (Săn Hổ) đặt dưới quyền chỉ huy của bộ tư lệnh MACV Tướng Westmoreland.

Di chuyển trên đường mòn HCN để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam, đối với nhiêu cán binh Bắc Việt sống sót, đó là một cơn ác mộng, ghi nhận những sự kiện có thật trong quyển tiểu thuyết “Chuyện Không Tên” của nữ sĩ Dương Thu Hương. Nhưng chuyện “xuôi nam” không thể ngừng lại hay giảm bớt nhịp độ. Những kế hoạch phòng thủ, bảo vệ chống lại các trận oanh kích của Không Quân Hoa Kỳ. Những hy sinh đó không được biết đến trong miền nam, nhưng quân đội cùng với đồ trang bị, tiếp vận từ miền Bắc vẫn phải đi qua đoạn đường “điạ ngục trần ai” để cuộc chiến trong miền nam vẫn tiếp tục…

Trận chiến trên không thứ ba xẩy ra trên miền bắc nước Lào, dưới hình thức yểm trợ tiếp vận cho quân bạn trên bộ. Đó là những tay súng mạo hiểm “dân sự” làm việc khế ước cho cơ quan CIA, Air America (Hãng Hàng Không Hoa Kỳ). Chuyện này khác với chiến dịch “Thùng Rượu Lăn” (Barrel Roll) cho đến đầu năm 1966. Chương trình này xử dụng các loại phi cơ có thế cất cánh hoặc đáp trên phi đạo ngắn (STOL), loại Helio Courier, Pilatus Porter và C-7, C-123 của Không Quân Hoa Kỳ. Cất cánh và đáp xuống trên phi đạo đất đỏ có tên là Lima Sites trên đất Lào, yểm trợ cho quân biệt kích thiểu số nguời Hmong (Mèo).

Trận chiến trên bộ xẩy ra giữa quân cộng sản Pathet Lào được quân đội chính quy Bắc Việt yểm trợ, đối đầu với họ là quân du kích sắc dân thiểu số Hmong do cơ quan CIA tuyển mộ, huấn luyện, tài trợ (CIA thuê “lính đính thuê” (Mercenary) Hoa Kỳ, Thái Lan… giúp người Hmong, cùng với quân đội Hoàng Gia Lào. Không Lực Hoàng Gia Lào có loại phi cơ cánh quạt AT-28 (như A-1 Skyraider) trong phi trường Wattay gần Vientiane (Vạn Tượng), và phi công Thailand từ căn cứ Không Quân (Hoa Kỳ) Udorn trên đất Thailand.

“Trận Chiến Bí Mật” nơi hướng bắc nước Lào, có lẽ là một trận chiến duy nhất trên thế giới mà quân du kích (người Hmong) được phi cơ yểm trợ. Không quân đem cho họ yếu tố quan trọng, di chuyển trong vùng rừng núi hiểm trở nơi hướng bắc Lào trong mùa mưa ẩm ướt, để họ mở các trân tấn công. Trong mùa khô từ tháng Mười Một qua hết tháng Giêng, quân cộng sản Pathet Lào được quân đội Bắc Việt yểm trợ tấn công.

Trong năm 1965, người Hoa Kỳ hiện diện trên đất Lào, ngoài nhân viên tòa đại sứ Hoa Kỳ, có thêm mấy phi công “Phi Đoàn Cảm Tử” (Air Commando), và phi công trực thăng thuộc phi đội Dịch Vụ Cấp Cứu (Air Rescue Services), căn cứ trong phi trường bên Thailand, biệt phái lên căn cứ hành quân tiền phương “phi đạo đất đỏ” Lima Sites (làm việc với Tướng Vang Pao, quân Hmong ‘Mèo’) để cứu các phi công Hoa Kỳ bị bắn rơi (oanh kích miền Bắc Việt Nam). Vì nước Lào trung lập nên phải xóa phù hiệu phi cơ khi đáp xuống đất Lào, cả quân phục Hoa Kỳ. Các phi công Air America mặc thường phục.

Chiến dịch oanh kích miền Bắc Sấm Rền (Rolling Thunders) được xem như trận chiến trên không thứ tư, ngoại trừ hành quân Hổ Thép (Steel Tiger) bắt đầu từ mùa hè năm 1965, khi các chiến đấu cơ Hoa Kỳ trên đất Lào tham chiến, tấn công các mục tiêu trên đường mòn HCM. Một trận tấn công điển hình trong hai ngày 16, 17 tháng Bẩy, các phản lực cơ F-105 thả 18.000 tấn bom xuống đèo Mụ Già và đèo Nape. Tuy nhiên, trên hệ thống chỉ huy, chiến dịch Sấm Rền và hành quân Hổ Thép khác nhau. Chiến dịch Sấm Rền theo lệnh của tòa Bạch Ốc, như sau:

Từ ngày 2 tháng Ba bắt đầu chiến dịch Sấm Rền, các mục tiêu nơi phiá nam Bắc Việt, sẽ do các phi đoàn phát xuất từ các phi trường trên đất Thailand, phi cơ Hải Quân phát xuất từ các hàng không mẫu hạm thuộc Đặc Nhiệm 77 trong vịnh Bắc Bộ, và phi cơ VNCH.

Chiến dịch Sấm Rền dựa trên căn bản kế hoạch hnh quân do bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội (JCS) Hoa Kỳ soạn thảo ra, trình lên bộ trưởng Quốc Phòng McNamara ngày 27 tháng Ba. Chiến dịch (dự trù) kéo dài 12 tuần lễ, chia làm bốn giai đoạn thả bom miền Bắc Việt Nam. Theo quan niệm của vị tư lệnh Không Quân Hoa Kỳ, Đại Tướng John P. McConnell (quân đội Hoa Kỳ có khoảng 10 ông Đại Tướng, tư lệnh các quân chủng và các vùng trên thế giới), nhằm mục đích cô lâp Bắc Việt với các quốc gia cung cấp vũ khí, quân dụng chiến tranh (Nga, Tầu và khối Đông Âu), hủy diệt kỹ nghệ chiến tranh của miền Bắc.

Tuy nhiên, có sự phân hóa ý kiến của các viên chức cao cấp trong chính quyền Tổng Thống Johnson về mục tiêu của chiến dịch Sấm Rền. Theo Tổng Thống Johnson cùng bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, đó là công điện gửi cho Hà Nội phải ngừng chuyện yểm trợ cho miền Nam Việt Nam (Việt Cộng). Theo cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy, tăng thêm hiệu năng giải quyết vấn đề Việt Nam. Đối với các tướng lãnh trong bộ Tổng Tham Mưu cùng Tư Lệnh Thái Bình Dương, Đô Đốc Grant Sharp, ở Honolulu, Hawaii, chỉ huy chiến dịch không tập miền Bắc Việt Nam, đó là chiến dịch ngăn chặn đường xâm nhập, tiếp vận của quân đội Bắc Việt. Đối với Tướng Westmoreland, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), đó cũng là lý do để tăng thêm quân bộ binh cho chiến trường Việt Nam. Sự khác biệt ý kiến ảnh hưởng chiến dịch Sấm Rền.

Tại gốc rễ ý kiến của Johnson, McNamara, chiến lược thả bom miền Bắc sẽ từ từ gia tăng, được giới chức dân sự cao cấp quốc phòng, cố vấn về chính sách tán đồng. Điều này làm giới tướng lãnh phải áp dụng cẩn thận gia tăng áp lực từng chút làm cho đối phương phải suy nghĩ lại. Chiến thuật này giảm tối đa tổn thất (phí tổn) cho Hoa Kỳ, và kiểm soát kỹ hướng đi của cuộc chiến. Chiến lược này đi ngược lại chiến thuật của Không Quân, sức mạnh Không Lực sẽ đè bẹp đối phương, gây nên căng thẳng giữa các tướng lãnh và các cố vấn dân sự (vòng bên trong) của Tổng Thống Johnson trong sự chọn lựa các mục tiêu để thả bom.

Bắt đầu từ tầng dưới cùng, danh sách các mục tiêu do Đặc Nhiệm 77 cùng với Đệ Thất Không Lực soạn ra trình lên kế tiếp là bộ tư lệnh Thái Bnh Dương, sau đó chuyển tiếp lên bộ Tổng Tham Mưu (JCS). Sau khi bộ TTM xem qua, sẽ trình lên bộ Quốc Phòng, cho viên phụ tá bộ trưởng Đặc Trách Các Dịch Vụ An Ninh Quốc Tế (ASD/ISA) xem qua trước khi đưa sang bộ Ngoại Giao, truớc khi trình lên tòa Bạch Ốc. Cứ mỗi tầng, danh sách mục tiêu có thể ngắn bớt đi, hoặc thêm điều kiện.

Cuối cùng danh sách mục tiêu vào đến tòa Bạch Ốc để lấy quyết định về các mục tiêu, mỗi thứ Ba hàng tuần vào giờ ăn trưa có mặt Tổng Thống Johnson, Thư Ký Báo Chí George Reedy, bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, bộ trưởng Ngoại Giao Dean Rusk và cố vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Johnson. Thỉnh thoảng, có thêm Tổng Tham Mưu Trưởng Qun Đội Hoa Kỳ, Đại Tướng Earle Wheeler, Lục Quân. Sau bữa ăn trưa, họ sẽ quyết định về các mục tiêu trong danh sách, trao nhiệm vụ (cho mục tiêu / đơn vị), vũ khí (loại vũ khí, bom nào), ngày và thời gian thi hành nhiệm vụ. Đôi khi thêm điều kiện tránh gây thiệt hại cho thường dân…

Trên thực tế, việc thi hành chiến dịch Sấm Rền khác xa chương trình bộ Tổng Tham Mưu quân đội Hoa Kỳ đưa ra lúc khởi thủy. Lằn ranh giới cho việc thả bom từ từ lên cao, lên đến khu vực đông bắc Việt Nam, nơi có nhiều mục tiêu chiến lược, tuy nhiên phi cơ Hoa Kỳ không được oanh kích khu vực dọc theo biên giới Tầu, và khu vực xung quanh Hà Nội, Hải Phòng. Phi cơ Hoa Kỳ cố gắng đánh xập cầu Hàm Rồng bằng phi cơ F-105 Thần Sấm, có đường xe lửa bắc qua sông Mã, hướng bắc Thanh Hóa ngày 3 và 4 tháng Tư thất bại. Chiếc cầu có vị trí chiến lược quan trọng, có đại bác phòng không 37ly, 57ly bảo vệ. Trong ngày 4 tháng Tư, lần đầu tiên trong chiến tranh Việt Nam, phản lực MiG-17 xutấ trận, bắn rơi hai F-105 của Hoa Kỳ.

Ngày 12 tháng Năm để tỏ thiện chí, Tổng Thống Johnson tuyên bố ngừng thả bom sáu ngày, tìm cách thương thuyết chính trị với Hà Nội qua trung gian Nga Sô. Ngày 30 tháng Năm, Không Quân Hoa Kỳ oanh kích cầu Hàm Rồng lần thứ tư, làm hư hại tạm thời không xử dụng được. Trong số 27 cây cầu ở miền Bắc, cầu Hàm Rồng duy nhất cuối cùng còn lại.      

Ngày 17 tháng Sáu, đặc nhiệm 77 được lệnh tấn công cầu Hàm Rồng và là trách nhiệm của Hải Quân (đặc nhiệm 77) cho đến khi ngừng oanh kích miền Bắc. Cho đến tháng Năm 1966, phi cơ Hải Quân tấn công cầu Hàm Rồng và khu vực phụ cận 24 lần, đường xá hư hại nhưng chiếc cầu vẫn đứng vững. Xe vận tải vẫn băng qua sông Mã vào buổi tối, bằng thuyền tam bản (phà).

Trong tháng Sáu, Bắc Việt nhận được thêm nhiều phản lực cơ MiG, nhằm ngăn chặn phi cơ F-105 của Hoa Kỳ. Cho đến hôm đó chỉ có 14 trận không chiến giữa MiG và F-105 Hoa Kỳ. Từ ngày 29 tháng Sáu cho đến hết tháng Bẩy có thêm 17 trận không chiến. Điều đáng nói, các hàng không mẫu hạm trong Đặc Nhiệm 77 gần mục tiêu hơn các căn cứ Không Quân trên đất Thailand. Phi cơ Hải Quân phát xuất từ hàng không mẫu hạm thường bay dưới cao độ thấp để có yếu tố bất ngờ, trong khi đó, phi cơ Không Quân phát xuất từ các căn cứ trên đất Thailand bay cao để bớt tiêu thụ nhiên liệu, dễ bị radar Bắc Việt khám phá từ xa và đôi khi cho phản lực MiG lên không chiến. Mặc dầu Không Quân Bắc Việt không gây được tổn thất nặng cho Hoa Kỳ, nhưng tỷ lệ vê phiá Hoa Kỳ xuống thấp đáng kể so với trận chiến Hàn Quốc đầu thập niên 1950.

Cũng trong tháng Sáu 1965, hàng không mẫu hạm USS Independence đến vùng biển miền Bắc Việt Nam, đem theo một phi đội phi cơ tấn công A-6 Intruder. Loại phản lực cơ chiến đấu này có bề ngoài… vụng về, hai ghế ngồi bên cạnh, song song với nhau phần trước phi cơ, một cho phi công, ghế kia cho sĩ quan vũ khí/định hướng (Bombardier/Navigator). Loại này mang được nhiều bom, 16 qủa bom nặng 750 cân Anh, không có sung, bay chậm nên rất dễ bị bắn rơi trong trận không chiến. Lợi điểm của loại phi cơ này, có thể bay trong mọi điều kiện thời tiết, bay dưới cao độ thấp, thả bom chính xác bằng radar. Cho đến năm 1972, A-6 Intruder là loại phi cơ chiến đấu duy nhất có khả năng này.

Trong khi đó ngày 5 tháng Tư, một phi cơ thám thính Hải Quân chụp hình được một vị trí hỏa tiễn điạ-không SA-2 đang được xây cất gần Hà Nội. Đến ngày 10 tháng Bẩy, Hà Nội có thêm bốn vị trí hỏa tiễn SA-2 nữa bao quanh thủ đô Hà Nội với đường bán kính 20 dặm và hai vị trí khác đang cây cất về hướng tây cách Hà Nội 30 dặm. Chuyện này được bàn luận trong vòng trong của Tổng Thống Johnson (chỉ những người thân cận).

Trong tháng Năm, trước sự đe dọa của các dàn hỏa tiễn SAM (SA-2), Không Quân Hoa Kỳ đưa 6 phi cơ EB-66C sang Thailand. Loại phản lực thả bom, hai động cơ được biến cải trang bị máy móc điện tử (phá sóng radar – ECM). EB-66C trang bị máy APR 25 RHAW (radar thả bom, báo động), khám phá làn sóng radar hỏa tiễn SA-2, báo động sớm cho các phi cơ thả bom Hoa Kỳ. EB-66C có thể đem theo máy ngăn chận làn sóng radar điều khiển bộ phận kích hỏa phóng hỏa tiễn SA-2.

Ngày 24 tháng Bẩy, một phản lực F-4C của Không Quân bị bắn rơi, ba chiếc khác hư hại do một hỏa tiễn SA-2 phóng lên từ một vị trí cách Hà Nội 30 dặm về hướng tây nam. Các dàn hỏa tiễn SAM là một thông điệp gửi cho người Hoa Kỳ phải cẩn thận. Ngày hôm sau, Tướng Wheeler TTMT/QĐ/HK gửi đi lời khuyến cáo của các tướng lãnh trong bộ TTM, cần phải thanh toán tất cả bẩy dàn hỏa tiễn SA-2, hoặc vị trí hai dàn hỏa tiễn nằm bên ngoài vòng đai Hà Nội. Các cố vấn dân sự vòng trong, không đồng ý, cho rằng nên tránh xa các dàn hỏa tiễn SA-2, ngoại trừ hai dàn bên ngoài, nếu không còn giải pháp khác.

Bộ trưởng Quốc Phòng McNamara cũng tán đồng việc thanh toán hai dàn hỏa tiễn bên ngoài vòng đai phòng thủ Hà Nội. Lệnh gửi đi ngày 26 và thi hành ngày hôm sau 27, do 16 phản lực F-105 đảm trách, cất cánh từ hai phi trường bên Thailand, Korat và Takhli. Thêm 24 F-105 khác tấn công đợt hai (phụ lực). Trận tấn công đợt hai sẽ được các phi cơ phá sóng radar EB-66C bay trước yểm trợ. McNamara đưa ra chiến thuật cho trận oanh kích. Trận tấn công đợt hai, sẽ bay thấp với cao độ 50-100 bộ, như yểm trợ cho quân bộ binh. Bốn Đại Úy phi công trong phi trường Takhli chống đối … chiến thuật điên cuồng (McNamara là dân sự), gọi cho sư đoàn 2 Không Quân, nói rằng chiến thuật “ngu ngốc”, nhưng được trả lời… đó không phải chuyện của các anh. Trong lúc chuẩn bị hành quân, sư đoàn 2 Không Quân đổi loại bom 750 cân Anh và hỏa tiễn, thay bằng bom Napalm, và bom chùm (CBU)… Lệnh lạc thay đổi, kết qủa hai phản lực F-105 cất cánh không đem theo bom đạn dưới đôi cánh.

Chuyến hành quân đem lại kết qủa thảm họa. Cả hai vị trí SAM được địch xử dụng làm bẫy, một làm giả, cái kia không có người. Bốn phản lực F-105 bị cao xạ phòng không bắn rơi, hai chiếc khác đụng nhau trên bầu trời. Một trong số sáu phi công nhẩy dù ra, một người được cứu thoát do trực thăng cấp cứu CH-3C phát xuất từ căn cứ Lima Site (dân Hmong, Mèo) nơi hướng bắc Cánh Đồng Chum trên đất Lào. Trận không tập chỉ đem lại một điều tốt, xử dụng phi cơ trực thăng tầm xa CH-3 Jolly Green của Không Quân trong các phi vụ cấp cứu phi công bị bắn rơi nơi miền Bắc Việt Nam.

Bắt đầu trong tháng Mười, trực thăng CH-3C đuợc thay thế bởi trực thăng HH-3E, trực thăng H-3 biến cải để cứu nguy trong lúc chiến đấu. Trực thăng được gắn thêm lớp thép bảo vệ phi công, động cơ, đồng hồ bay, thùng xăng phụ tăng tầm hoạt động. Trực thăng HH-3E chứng minh rất hiệu qủa, có thể hoạt động xa lên đến khu vực thung lũng sông Hồng, hướng tây bắc Hà Nội, và cấp cứu dọc theo đường mòn HCM. Tổng cộng 6 trực thăng HH-3E được đưa đến căn cứ Không Quân Udorn, Thailand trước khi qua năm mới.

Con số tổn thất 6 phản lực F-105, 5 phi công trong 54 phi vụ, tỷ lệ tổn thất 11% là điều đáng buồn. Sẽ không có thêm những trận tấn công các dàn hỏa tiễn SAM nữa. Hải, Không Quân Hoa Kỳ tìm cách phá hệ thống radar, làm rối loạn radar điều khiển hỏa tiễn SA-2 của Bắc Việt. Đến tháng Mười, Hải Quân bắt đầu trang bị một số chiến đấu cơ A-4 Skyhawk hệ thống dò tìm làn sóng radar hỏa tiễn SAM (RHAW).

Hải Quân mất một phản lực A-4 Skyhawk vì hỏa tiễn SA-2 đêm 11 sáng 12 tháng Tám, chiếc đầu tiên Hải Quân mất vì hỏa tiễn SAM của Bắc Việt. Đặc Nhiệm 77, trả đũa mở trận không tập lớn tấn công các dàn hỏa tiễn SAM sáng ngày 13 (tháng Tám). Không được (chưa được) trang bị hệ thống RHAW dò tìm hỏa tiễn SAM, nên phải tìm bằng mắt (quan sát) do đó không thành công. Lính Bắc Việt ngụy trang rất khéo, và kỷ luật, kết qủa Hải Quân bị bắn rơi thêm 6 (A-4 Skyhawk).

Ngày 31 tháng Mười, Không Quân Hoa Kỳ phá hủy một dàn hỏa tiễn SA-2 của Bắc Việt. Hai cặp đôi, bốn phản lực F-105 cất cánh từ phi trường Takhli, bay theo sau yểm trợ trận oanh kích phá chiếc cầu gần phi trường Kép, hướng tây bắc Hà Nội. Nhờ hệ thống RHAW dò làn sóng radar hỏa tiễn SAM trang bị trên phản lực A-4 Skyhawk phát xuất từ hàng không mẫu hạm USS Oriskany, Thiếu Tá (Hải Quân) Richard Powers, nhận diện được hai vị trí hỏa tiễn SA-2 cho phản lực F-105 của Không Quân tiêu diệt. Bắc Việt phóng lên 27 hỏa tiễn nhưng không hiệu qủa. Thiếu Tá Power qúa hăng say, chiếc phản lực A-4 Skyhawk bị trúng đạn phòng không bốc cháy. Ông ta nhẩy dù ra, nhưng không liên lạc vô tuyến (bị bắt hoặc chết). Thiếu Tá Power được ân thưởng huy chương Thập Tự Hải Quân (Navy Cross - chỉ thua Medal of Honor). Thiếu Tá Power chết, xương cốt được đưa về Hoa Kỳ năm 1987.

Ngày 7 tháng Mười Một, Đặc Nhiệm 77 (phi cơ Hải Quân) tấn công các vị trí trung đoàn 236 Hỏa Tiễn Bắc Việt nơi hướng đông nam Hà Nội, phá hủy hai trong số bốn tiểu đoàn hỏa tiễn của trung đoàn 236, và tiểu đoàn yểm trợ kỹ thuật, chuyên tháo ráp, thiết lập dàn phóng hỏa tiễn SA-2, làm cho trung đoàn hỏa tiễn Bắc Việt trở nên bất khiển dụng một thời gian (thiếu chuyên viên kỹ thuật – theo tài liệu Bắc Việt).  

Đến cuối tháng Mười Một, tình báo Hoa Kỳ ước tính số lượng người và quân dụng, Hà Nội đưa vào miền Nam Việt Nam gia tăng. Khoảng 1.500 quân lính Bắc Việt “quá cảnh” nước Lào trong tháng Mười, con số sẽ tăng lên 4.500 (gấp ba lần) trong mùa khô. Một bản nghiên cứu năm 1967 từ cơ quan Tình Báo Quốc Phòng (DIA), đặc biệt trong mùa khô từ 1 tháng Chín cho đến 31 tháng Ba, Bắc Việt đưa vào miền Nam trung bình 30 xe vận tải Molotova quân dụng, khoảng 90 tấn mỗi ngày. Trung bình mỗi tháng đưa vào chiến trường miền Nam 366 tấn trong năm 1965, tăng lên từ 243 tấn năm 1964.

Ngày 1 tháng Mười Hai, phi vụ Wild Weasel đầu tiên ra miền Bắc Việt Nam, hai phản lực F-100F Super Sabre dẫn đường cho các phi đội F-105 theo sau thả bom. Loại F-100 rất công hiệu, bay chậm hơn F-105, tuy nhiên tầm hoạt động bị giới hạn (không xa).

Tháng Mười Hai bắt đầu chiến dịch Tiger Hound và gia tăng tầm hoạt động cho phi cơ thả bom B-52 sâu vào đất Lào, nhắm vào yết hầu (các điểm trọng yếu trên đường mòn HCM). Mục đích ngăn chặn Bắc Viêt đưa quân, chiến cụ, tiếp liệu vào chiến trường miền Nam Việt Nam.

Ngày 22 tháng Mười Hai, đặc nhiệm 77 xử dụng hơn 100 phi cơ oanh kích nhà máy điện Uông Bí nơi hướng bắc, tây bắc thành phố Hải Phòng. Tòa Bạch Ốc đã chấp thuận cho trận không tập nhà máy cung cấp 1/3 điện lực cho thành phố Hà Nội, và bị hư hại nặng sau trận oanh kích, mất mấy tuần lễ để sửa chữa. Hải Quân Hoa Kỳ (đặc nhiệm 77) chỉ bị rơi hai phản lực A-4 Skyhawk. Sau đó miền Bắc phải mua máy phát điện chạy dầu sản xuất tại Đông Đức.

Đến cuối năm, Hải Quân Hoa Kỳ đã trang bị máy khóa sóng radar ALQ-51 trên các phi cơ A-4, A-6 đặc nhiệm 77 để phá sóng radar điều khiển các dàn hỏa tiễn SA-2 Bắc Việt.

Theo tài liệu:

John F. Guilmartin, Jr., “Air War - 1965”, Radix Press 1965, pages: 143 - 168

Dallas, TX. 4 May, 2023

vđh

Previous
Previous

Chiến Tranh, Con Đường Ngắn Nhất Dẫn Tới Hòa Bình Trên Biển Đông

Next
Next

Bản Án Tử Hình