Trận tấn công Lang Vei và Khâm Đức

James D. McLeroy

I. TRẠI LLĐB LANG VEI

Trong năm 1964, những đơn vị chính quy Bắc Việt (NVA) bắt đầu xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Sự thay đổi chiến lược này do kết qủa tình hình chính trị quân sự xáo trộn trong miền nam sau vụ đảo chính, giết chết Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng người em Cố Vấn Ngô Đình Nhu trong tháng Mười Một năm 1963. Trong mùa xuân năm 1964, cả sư đoàn 325 chính quy Bắc Việt xâm nhập vào miền nam.

Đến cuối năm 1964, Việt Cộng trong miền Nam Việt Nam có khoảng 30.000 người, đã được huấn luyện, trang bị, tổ chức thành các đơn vị tương đương 5 sư đoàn. Trong đó lính Bắc Việt từ miền Bắc vào chiếm khoảng 40% quân số, 85% sĩ quan, cán bộ là người miền Bắc.

Sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, quân đội VNCH xuống tinh thần, nạn bè phái tham nhũng lan tràn trong quân đội, chính quyền VNCH. Ngưởi Hoa Kỳ lúc đó vẫn chưa có những đơn vị bộ binh cấp lớn để đương đầu với sự gia tăng của quân đội Bắc Việt trong miền nam, đặc biệt những khu vực biên giới. Một lực lượng duy nhất bảo vệ khu vực biên giới là các toán A Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ, toán A LLĐB/VN và quân biệt kích Dân Sự Chiến Đấu sắc dân thiểu số.

Quân LLĐB/HK trên vùng cao nguyên có nhiệm vụ biên phòng, bảo vệ đường biên giới chống sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt vào miền Nam, nhưng sau dó phải chiến đấu chống lại sự tấn công của quân đội Bắc Việt / Việt Cộng như những đơn vị bộ binh trang bị nhẹ (nhỏ). Đó là một nhiệm vụ khó khăn, vì các đại đội Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ) chỉ được huấn luyện, trang bị chống lại quân du kích Việt Cộng.

Hơn nữa, trong năm 1964 quân Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ làm nhiệm vụ cố vấn cho toán A LLĐB/VN, những người chỉ huy trại LLĐB. Vài toán LLĐB/VN trung thực, can đảm, năng động, là những quân nhân chuyên nghiệp, đa số tham nhũng, hèn nhát, thụ động.

Trong năm 1965, các sư đoàn bộ binh, TQLC Hoa Kỳ bắt đầu đến Việt Nam để đương đầu với sự gia tăng của quân đội chính quy Bắc Việt trong miền Nam. Trong tháng Giêng năm 1968, trại LLĐB Lang Vei nằm nơi góc tây bắc miền Nam Việt Nam, gần biên giới Lào-Việt, là một trong hai trại LLĐB Biên Phòng còn lại nơi vùng I Chiến Thuật. Lang Vei có thể được pháo binh TQLC/HK trong căn cứ Khe Sanh bắn yểm trợ truờng hợp căn cứ bị tấn công.

Đối với Tướng Westmoreland, căn cứ Khe Sanh có vị trí chiến lược phải bảo vệ bằng mọi giá. Khe Sanh nằm trong kế hoạch bí mật của Tướng Westmoreland, xử dụng Khe Sanh làm căn cứ xuất phát cho trận tấn công sang đất Lào cắt đứt, phả hủy hệ thống đường mòn HCM cùng các căn cứ dưỡng quân, binh trạm, kho tiếp vận của quân đội Bắc Việt. Bộ chính trị Bắc Việt cũng biết chuyện đó. Nếu chuyện đó xẩy ra, căn cứ, binh trạm, đường tiếp vận bị phá hủy, cắt đứt, quân Việt Cộng và quân đội Bắc Việt trong miền Nam sẽ bị “bóp chết” vì thiếu tiếp tế.

Tuy nhiên, chuyện đánh sang đất Lào ra ngoài quyền hạn của Tướng Westmoreland, phải có sự chấp thuận của Tổng Thống Hoa Kỳ. Johnson cũng ngại đụng chạm với Quốc Hội, và sợ rằng Trung Cộng sẽ nhẩy vào vòng chiến. Ngoài ra, vị trí chiến lược trại LLĐB Lang Vei, báo động cho căn cứ Khe Sanh biết trước địch quân từ bên Lào tấn công xuyên qua biên giới.

Trại LLĐB Lang Vei gần ngôi làng Thượng Lang Vei bị tấn công trong tháng Năm 1967 do một đại đội chính quy Bắc Việt với súng cối và hỏa tiễn yểm trợ. Căn cứ không bị tràn ngập nhưng phải bỏ vì qúa nhỏ. Trong tháng Sáu 1967, một trại LLĐB mới được xây cất rộng lớn hơn với công sự phòng thủ vững chắc, cách trại cũ một dặm rưỡi về hướng tây.

Quân đội Bắc Việt có ít nhất ba mục tiêu chiến thuật để tấn công trại LLĐB Lang Vei trong năm 1968. 1) Cần có thêm chiến xa hỗ trợ cho trận tấn công vì căn cứ mới rất kiên cố. 2) Quân đội Bắc Việt chưa từng xử dụng chiến xa lội nước, hạng nhẹ PT-76, trận đánh trại LLĐB Lang Vei rất tốt để thử nghiệm, cho trận tấn công lớn vào căn cứ Khe Sanh. 3) Trại LLĐB Lang Vei gần biên giới Lào, dễ cho trận tấn công, mất thời gian cho quân tiếp viện đến trại.

Ngày 24 tháng Giêng, 1968 một tiểu đoàn người thiểu số Kha 520 người bị quân đội Bắc Việt với chiến xa PT-76 tấn công tràn ngập. Chạy theo tiểu đoàn Lào, 2.200 thường dân Lào chạy theo băng qua biên giới Lào Việt đến trại LLĐB Lang Vei. Viên sĩ quan chỉ huy trại LLĐB, Đại Úy Frank Willoughby cho phép họ tạm trú trong trại LLĐB cũ (bỏ hoang), nhưng viên chỉ huy tiểu đoàn Lào từ chối không chấp nhận lệnh người có cấp bậc thấp hơn.

Willoughby báo cáo về bộ chỉ huy C1 (Vùng I), liên đoàn 5 LLĐB/HK ở Đà Nẵng, Trung Tá Daniel Schungel. Ngày 6 tháng Hai, Schungel bay lên Lang Vei giải quyết vấn đề và đích thân đánh giá tình hình địch (quân đội Bắc Việt) trong khu vực. Ông ta gửi một đại đội Xung Kích Tiếp Ứng (Mike Force) 150 người Thượng dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Paul Longgrear lên tiếp viện cho bốn đại đội, 400 quân Dân Sự Chiến Đấu người thiểu số Bru trong trại LLĐB Lang Vei. Nâng tổng số quân lên 550 người (Mike Force + DSCĐ).

Tối hôm đó, trại LLĐB Lang Vei cùng căn cứ Khe Sanh bị pháo kích bằng súng cối và đại bác. Ít phút sau nửa đêm, một tiểu đoàn Bắc Việt được 11 chiến xa PT-76 dẫn đường, tấn công trại LLĐB Lang Vei. Hai chiến xa mở đèn pha ủi vào lớp hàng rào phòng thủ trước phòng tuyến một đại đội DSCĐ, theo sau là lính bộ binh Bắc Việt đem theo súng phun lửa để thiêu thủy các pháo đài phòng thủ, mìn bagalore, lựu đạn ném tay, cùng vũ khí cá nhân.

Một lính Mũ Xanh Hoa Kỳ, Trung Sĩ Nhất James Holt, bắn tung hai chiến xa của địch bằng đại bác không dật 106 ly, thêm chiếc thứ ba với hai viên đạn đại bác 106 ly. Anh ta cùng một hạ sĩ quan khác bỏ chạy ra khỏi vị trí ổ súng đại bác trước khi đại bác trên chiến xa địch bắn trúng vị trí. Trung Sĩ Nhất Holt chạy thoát vào bóng đêm rồi “biến mất” cho đến ngày nay (mất xác).

Trung Tá Schungel, Trung Úy Longgrear, một Thiếu Úy LLĐB/VN, cùng ba hạ sĩ quan Mũ Xanh (LLĐB/HK) bắn hỏa tiễn (M-72), ném lựu đạn vào chiến xa Bắc Việt, nhưng lựu đan không gây thiệt hại cho chiến xa. Chỉ có một chiến xa bị hỏa tiễn M-72 bắn cháy, những qủa khác trượt đi hướng khác. Các chiến xa khác cùng quân bộ binh Bắc Việt tràn vào căn cứ, quân DSCĐ củng Mike Force sống sót tìm đường thoát ra khỏi căn cứ chạy vào rừng.

Đại Úy Willoughby báo cáo trận tấn công của địch về bộ chỉ huy C1 LLĐB ở Đà Nẵng bằng máy truyền tin. Bộ chỉ huy C1 LLĐB yêu cầu TQLC trong căn cứ Khe Sanh cấp cứu theo kế hoạch đã soạn sẵn trường hợp trại LLĐB Lang Vei bị tấn công. Cấp chỉ huy TQLC trong Khe Sanh từ chối viện lý do căn cứ đang bị địch pháo kích.

Trung Tá Schungel bị thương do mảnh đạn đại bác chiến xa PT-76. Ông ta cùng một hạ sĩ quan LLĐB/HK trốn dưới một building đã lọt vào tay quân Bắc Việt. Trong khi đó, Willoughby, Longgrear, mấy hạ sĩ quan LLĐB/HK cùng mấy quân nhân LLĐB/VN bị kẹt trong Trung Tâm Hành Quân (TOC) ngầm dưới mặt đất. Lính Bắc Việt ném lựu đạn khói vào hầm, mấy quân nhân LLĐB/VN chịu không nổi ra đầu hàng, bị bắn tại chỗ. Quân Bắc Việt cho bộc phá vào ống dẫn không khí xuống hầm Trung Tâm Hành Quân (TOC) nổ tung làm bị thương Đại Úy Willoughby và hầu hết nhũng người khác.

Ba hạ sĩ quan Mũ Xanh cùng với dân tỵ nạn dân thiểu số Lào (người Kha) trong căn cứ Lang Vei cũ, yêu cầu cấp chỉ huy quân đội Lào tiếp cứu quân LLĐB trong căn cứ mới nhưng ông ta từ chối. Cuối cùng Trung Sĩ Nhất Eugene Ashley thuyết phục được 6 người Lào đi với anh ta cùng hai quân Mũ Xanh khác chạy trở lại trại LLĐB Lang Vei mới. Nhưng khi bị địch bắn, sáu người Lào bỏ chạy. Ashley cố gắng tiến công vào trong trại nhưng trúng đạn bị thương nặng rồi chết, anh ta được ân thưởng huy chương Danh Dự (sau này gia đình Trung Sĩ Ashley được mời vào tòa Bạch Ốc để Tổng Thống Hoa Kỳ trao huy chương).

Không quân chiến thuật (phản lực) Hoa Kỳ được gọi lên oanh kích, nhưng phi công không thể phân biệt đâu là bạn, ai là thù. Đến rạng sáng ngày hôm sau, họ nhìn rõ chiến xa, lính Bắc Việt bên trong trại LLĐB oanh kích thả bom làm địch hoảng sợ phải rút lui.

Thiếu Tá George Quamo chỉ huy căn cứ đơn vị SOG (Nha Kỹ Thuật – Lôi Hổ) trong Khe Sanh tổ chức một toán biệt kích cấp cứu (tình nguyện) tìm các quân nhân sống sót từ trại LLĐB Lang Vei. Đích thân Tướng Westmoreland ra lệnh cho Trung Tướng Cushman (TQLC/HK), tư lệnh Lực Lượng Đệ Tam Thủy Bộ (hai sư đoàn TQLC 1 và 3) ngoài vùng I Chiến Thuật cung cấp trực thăng cho toán biệt kích SOG đi tìm quân Mũ Xanh sống sót Lang Vei. Những quân nhân Mũ Xanh Việt-Mỹ sống sót chạy đến căn cứ cũ, tập họp lại chờ đợi trận tấn công của quân đội Bắc Việt, nhưng địch đã rút lui khi bị không quân oanh kích.

Mười (10) trong số hai mươi bốn (24) quân Mũ Xanh Hoa kỳ trong trại LLĐB (mới) Lang Vei mất tích coi như chết không thâu hồi được xác hoặc bị địch bắt sống. Trong đó 3 lính Mũ Xanh bị bắt, đưa ra Hà Nội và được trả tự do (Home Coming) sau khi hiệp định đình chiến Paris ký kết (28 tháng Giêng năm 1973) cùng với những tù binh Hoa Kỳ khác. Trong số 450 quân biệt kích sắc dân thiểu số, 209 người tử trận hoặc mất tích. Quân đội Bắc Việt mất 7 chiến xa, hơn 200 binh sĩ tử trận. Sau trận đánh, trại LLĐB Lang Vei phải di tản (bỏ). 

II. TRẠI LLĐB KHÂM ĐỨC

Sau khi trại LLĐB Lang Vei bị tấn công, Khâm Đức là trại biên phòng cuối cùng ngoài vùng I Chiến Thuật, cách căn cứ Chu Lai 45 dặm theo đường chim bay, cách lằn ranh giới quân đoàn II (cao nguyên) 12 dặm về hướng nam, trong một thung lũng nhỏ hình qủa trứng, dài hai dặm, rộng một dặm rưỡi, trên cao độ 1.100 bộ, xung quanh là rừng núi rậm rạp cao độ từ 3.000 đến 5.000 bộ. Không như các trại LLĐB ngoài vùng I Chiến Thuật, Khâm Đức có phi đạo ngắn tráng nhựa dài 6.200 bộ. Một rặng núi cao nới hướng tây, một ngọn đồi cao nơi hướng đông nhìn xuống thung lũng, hai đầu bắc, nam phi đạo.

Căn cứ được xây dựng sơ xài, không có đường bộ vào, và ngoài tấm pháo binh yểm trợ của quân bạn, không thể chống lại một trận tấn công của một đơn vị địch trang bị tối tân đầy đủ. Trại LLĐB Khâm Đức chỉ có thể tiếp tế bằng phương tiện hàng không với điều kiện thời tiết tốt, phi công có tầm quan sát tốt, nhìn rõ thung lũng.

Tuyến phòng thủ bên ngoài Khâm Đức có bốn lớp hàng rào, tuyến bên trong có hầm hố, giao thông hào chiến đấu chạy “Zig-Zag   chữ Z”, sâu 4 bộ. Dọc theo giao thông hào có pháo đài với mái che và ổ súng đại liên 30, đại liên 50, một đại bác không dật 106 ly, hai ụ súng cối 81 ly. Nơi phiá đông căn cứ có pháo đài trung tâm, ổ súng đại liên 50, và ụ súng cối 60 ly.

Trong tháng Năm 1968, dân thiểu số sống trong thung lũng Khâm Đức không đến 600 người. Trong trại LLĐB có 266 quân Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ), 20 biệt kích trong trung đội Thám Sát, 10 quân Mũ Xanh toán A LLĐB/HK 10 biệt kích, huấn luyện viên sắc tộc Nùng (bảo vệ toán A-105 (Conroy LLĐB/HK), 12 quân nhân LLĐB/VN và 7 biệt kích SOG (nhân viên phóng biệt kích SOG trong trại LLĐB Khâm Đức). Ngôi làng người thiểu số trong khu vực có 272 thường dân. Nơi hướng nam có một căn cứ nhỏ hơn (rộng khoảng 1/4 trại LLĐB Khâm Đức) cho quân LLĐB đến thụ huấn khóa huấn luyện. Trong tháng Năm 1968 có 60 khóa sinh thuộc đại đội 12 Xung Kích (Mike Force) từ Đà Nẵng vào thụ huấn. Phiá bên kia phi đạo có một trại thứ ba do đại đội 122 Công Binh Hoa Kỳ đồn trú.

Trong thời gian đó, tiểu đoàn DSCĐ trong trại có ba đại đội quân số: 94, 91 và 81. Họ không phải người thiểu số, trong khu vực có ít người dân tộc Jeh sống rải rác, họ “qúa” nguyên thủy xa cách, lúc ẩn lúc hiện không thể gom lại huấn luyện trở thành DSCĐ. Họ là người Việt, tội phạm bị “tống” lên Khâm Đức.

Tất cả quân nhân cả Mỹ lẫn Việt đều không thể trốn ra khỏi Khâm Đức ngoại từ bằng đường hàng không. Họ không có tinh thần ái quốc, hãnh diện phục vụ, nguy hiểm và không tin tưởng được. Có thể vài người trong nhóm họ là Việt Cộng trá hình xâm nhập, bí mật lấy tin tức phòng thủ trong trại và trao do Việt Cộng giả thường dân sống bên ngoài trại LLĐB.

Bẩy người đơn vị SOG (Nha Kỹ Thuật – Lôi Hổ) chiếm đóng phiá sau căn cứ, họ làm nhiệm vụ “phóng” các toán biệt kích sang đất Lào dò thám lấy tin tức, hoặc phá hoại. 91 quân biệt kích SOG khác (19 Hoa Kỳ và 72 biệt kích Thượng) tạm thời được huấn luyện trong căn cứ hoặc sửa soạn cho chuyến xâm nhập vào đất Lào. Quân biệt kích SOG tinh nhuệ, không như DSCĐ, sống cách biệt bởi hàng rào trong khu vực dành riêng cho đơn vị SOG. Quân DSCĐ không được phép vào trong khu vực của đơn vị SOG.

Cách trại LLĐB Khâm Đức 15 dặm về hướng nam, có một nhánh đường lớn thuộc hệ thống đường mòn HCM rẽ vào miền Nam Việt Nam. Quân đội Bắc Việt di chuyển vào trong nam thường xuyên, chưa từng đe dọa vấn đề an ninh của trại LLĐB Khâm Đức, vả lại quân DSCĐ Khâm Đức chưa từng gây khó khăn, trở ngại cho họ.

Khí hậu, thời tiết trong khu vực Khâm Đức khác thường, khó tiên đoán, cho các hoạt động xâm nhập, triệt xuất toán biệt kích SOG bằng trực thăng. Toán biệt kích đầu tiên là toán Iowa xâm nhập vào đất Lào. Lúc đi thời tiết tốt, nhưng khi thả toán biệt kích xong trên đường quay về Khâm Đức, chiếc trực thăng H-34 do phi hành đoàn 219 Việt Nam Kingbee lái, chở theo Đại Úy Larry Thorn trưởng ban 3 hành quân đưa toán biệt kích Iowa đi xâm nhập mất tích. Sau này tìm ra, tất cả quân nhân Việt Mỹ được an táng trong nghiã trang quốc gia Arlington. Chiếc phi cơ điều không FAC do Thiếu Tá TQLC/HK lái Session trên đường bay về phi trường Đà Nẵng cũng biến mất luôn. Trong ngày xuất quân của đơn vị SOG, người Hoa Kỳ đã mất hai sĩ quan ưu tú.

Trách nhiệm cho việc bảo vệ các trại LLĐB Biên Phòng ngoài Vùng I Chiến Thuật trước đó trao cho Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, nhưng đến cuối năm 1967, nhiệm vụ bảo vệ bẩy (7) trại LLĐB phiá nam Đà Nẵng trao cho sư đoàn 23 Bộ Binh Hoa Kỳ (sư đoàn Americal - được thành lập thay cho sư đoàn 3 TQLC/HK di chuyển ra Quảng Trị), bộ tư lệnh sư đoàn đóng trong căn cứ Chu Lai. Sư đoàn Americal thảo kế hoạch bảo vệ các trại LLĐB có tên là Hành Quân Thung Lũng Vàng (Golden Valley). Kế hoạch hành quân dựa trên vài yếu tố: thứ nhất, đơn vị tấn công (NVA/VC) không lớn hơn hai tiểu đoàn, thứ hai sư đoàn có quân trừ bị cho trận tấn công của địch (hai tiểu đoàn).

Cả hai yếu tố trên đều không thực tế, đối với một tiền đồn biên phòng hẻo lánh như Khâm Đức, có thể bị địch tập trung quân cấp trung đoàn tấn công vào ban đêm hay trong điều kiện thời tiết xấu (không thể yêu cầu không trợ). Và còn ít thực tế hơn nữa, trường hợp di tản (thương binh, thường dân) khẩn cấp dưới hỏa lực phòng không của quân đội Bắc Việt. Dầu sao chăng nữa cũng không thể giữ làm trừ bị một lữ đoàn để tiếp cứu trại LLĐB Khâm Đức trường hợp bị tấn công. Khi trận tấn công đã bắt đầu, khó đưa quân lên tăng viện nhanh chóng.

Ngày 4 tháng Năm, kế hoạch hành quân giải tỏa trại LLĐB Biên Phòng được sửa đổi và chấp thuận bời Thiếu Tướng Samuel Koster, tư lệnh sư đoàn Americal. Nhưng kế hoạch mới vẫn chưa nói đến: thứ nhất, sự kiện thời tiết xấu, sự phòng thủ trại LLĐB Khâm Đức đòi hỏi phải có không quân chiến thuật yểm trợ 24/24. Thứ hai, cần phải có ba tiểu đoàn bộ binh lên tiếp viện, bảo vệ trại LLĐB và phi đạo (tiếp tế, di tản thương binh, viện binh), và thiết lập căn cứ hỏa lực pháo binh yểm trợ cận phòng. Trong khi đó, nhiệm vụ chính của sư đoàn 23 BB/HK (Americal) là bảo vệ dân chúng, thành phố, các vị trí chiến lược hai tỉnh phiá nam Quân Đoàn I (Quảng Tín, Quäng Ngãi), do đó cả ba lữ đoàn được xử dụng trong nhiệm vụ chính yếu này.

Trận tấn công trại LLĐB Khâm Đức bắt đầu từ sáng sớm ngày 10 tháng Năm, lúc trời vẫn còn tối bằng trận pháo kích phủ đầu vào căn cứ, sau đó bộ binh Bắc Việt tấn công một căn cứ nhỏ Ngok Tavak cách Khâm Đức 5 dặm về hướng nam. Đến buổi chiều, sư đoàn Americal đưa một tiểu đoàn cùng với pháo binh lên tiếp viện cho Khâm Đức, rải quân dọc theo phi đạo. Qua ngày hôm sau 11 tháng Năm, 30 pháo đài bay B-52 thả 3000 qủa bom trên những khu vực tình nghi địch tập trung quân cho trận tấn công xung quanh Khâm Đức. Cũng trong ngày hôm đó, hai phi cơ quan sát FAC (điều không tiền tuyến) O-1 điều động các phi tuần phản lực oanh kích các vị trí địch giữa hai căn cứ Ngok Tavak và Khâm Đức, một chiếc bị phòng không địch bắn rơi, viên phi công tử trận.

Trong khi đó, quân đội Bắc Việt tiếp tục pháo kích bằng súng cối vào pháo đội đại bác Hoa Kỳ và trại LLĐB Khâm Đức, gây thương vong chết và bị thương cho lính Hoa Kỳ và biệt kích DSCĐ. Lúc 12:30 chiều, sáu qủa đạn súng cối 82 ly nổ trong vị trí pháo binh Hoa Kỳ và xung quanh, gây tử thương bốn người lính bộ binh, một pháo thủ Hoa Kỳ, 27 lính pháo binh Hoa Kỳ bị thương, hai đại bác 105 ly bị tiêu hủy. Phi cơ C-123 vào di tản được 19 người bị thương nặng về Đà Nẵng. Mặc dầu bị tổn thất, pháo binh Hoa Kỳ bắn cả ngày xung quang khu vực Khâm Đức 600 qủa, và cả đêm thêm 750 qủa nữa.

Tướng Westmoreland quyết định di tản quân trú phòng trong trại LLĐB Khâm Đức, trước khi họ bị giết hoặc bắt sống. Ông ta ra lệnh cho vị Tướng phụ tá về Không Quân William Momyer chỉ huy cuộc di tản. Momyer được trao quyền chỉ huy gần 700 phi cơ có cánh trên chiến trường Việt Nam, bao gồm tất cả các quân binh chủng.

Trong số 700 phi cơ có 120 phản lực chiến đấu của Không Quân và TQLC/HK, trong các phi trường trong miền Nam Việt Nam, 110 chiếc đóng trong căn cứ Không Quân (HK) bên Thailand, và gần 300 chiếc của Hải Quân và TQLC trên ba (3) hàng không mẫu hạm ngoài khơi Việt Nam (vịnh Bắc Bộ). Ông ta chỉ huy luôn hơn 100 phi cơ thả bom Không Quân Chiến Lược B-52 trên đảo Guam, Thailand, và Okinawa.

Quân đội Bắc Việt mở trận tấn công chính vào lúc 2:45 phút sáng ngày 12 tháng Năm, pháo kích súng cối 82 ly, hỏa tiễn vào một trạm quan sát (OP 2) trên một ngọn đồi, sau đó một trung đội lính Bắc Việt lên tấn công. Chỉ một người lính Hoa Kỳ duy nhất sống sót, kể lại… người ra đầu hàng vẫn bị bắn chết.

Trung Tâm Hành Quân (TOC) tiểu đoàn bộ binh Hoa Kỳ gần phi đạo, liên lạc Spooky (AC-47 Hỏa Long) đang bay bao vùng khu vực Khâm Đức, yêu cầu yểm trợ. Đồng thời toán A LLĐB/HK, đơn vị SOG báo cáo trận tấn công về bộ chỉ huy C1 LLĐB, sở Chỉ Huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng. Khoảng 3 giờ sáng, Spooky đến thả hỏa chấu chiếu sáng trạm quan sát 2 (OP 2), nhưng đám sương mù thấp che phủ không quan sát được mục tiêu. Lúc 3 giờ 20 phút sáng, trạm quan sát OP 1 cũng bị pháo kích, tấn công (như OP 2).

Lúc 4 giờ sáng, bộ tư lệnh sư đoàn Americal trong căn cứ Chu Lai, và bộ chỉ huy C1 LLĐB gọi Trung Tâm Không Yểm Vùng I Chiến Thuật (I DASC) ở Đà Nẵng, báo cho họ biết trại LLĐB Khâm Đức đang bị tấn công, và yêu cầu không trợ. Ngay tức khắc (I DASC) cho một phi cơ điều không, quan sát (FAC) bay lên bao vùng Khâm Đức, và bắt đầu phối hợp các phi tuần phản lực lên oanh kích. Lúc 5 giờ 15 phút sáng, một phi cơ quan sát O-2 FAC biệt phái cho sư đoàn Americal bay lên Khâm Đức. Đến 6 giờ sáng, những đám mây thấp (làn sương sớm) đã biến mất, viên phi công FAC có thể nhìn thấy đạn lửa, và những đám khói bụi pháo kích nổ xung quanh trại LLĐB và nơi trạm quan sát OP 2.

Bay vòng trên cao độ 2.000, 3.000 bộ, viên phi công FAC được Trung Tâm Hành Quân (TOC) tiểu đoàn bộ binh bố trí dọc theo phi đạo báo cáo. Trung Tâm Không Yểm Vùng I điều động lên Khâm Đức 10 phản lực F-4 Phantom của Không Quân từ Đà Nẵng, và 10 phản lực A-4 Skyhawk TQLC từ Chu Lai lên oanh kích. Tất cả phi cơ chiến thuật lên đều phải báo cáo cho phi công FAC (điều không) số lượng bom đạn đem theo.

Đến lúc đó quân Bắc Việt đã tiến sát vị trí quân đội Hoa Kỳ, viên phi công FAC không thể chỉ hướng đánh ngay trên đầu trạm quan sát OP 2 sợ giết lầm quân nhân sống sót Hoa Kỳ. Viên phi công FAC điều động các phản lực Hoa Kỳ bắn phá dọc theo phi đạo và xung quanh trại LLĐB Khâm Đức.

Lúc 6 giờ 30 phút sáng, Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật Không Lực 7 Hoa Kỳ (tương đương Hạm Đội 7 – trong khu vực Thái Bình Dương) trong phi trường Tân Sơn Nhất đưa lên Khâm Đức phi cơ C-130 danh hiệu Hillsboro trang bị đặc biệt để liên lạc điều khiển oanh kích cứu toán biệt kích SOG (Nha Kỹ Thuật, Lôi Hổ). Thường ban ngày, Hillsboro bay bao vùng trên đất Lào liên lạc với các toán biệt kích. Hillsboro có thể bay bao vùng 16 tiếng đồng hồ, chở theo một toán chuyên viên 10 người đem theo máy móc xử lý các dữ kiện. Hôm đó, Hillsboro chuyển hướng các phi vụ trong miền Nam Việt Nam, và Thailand to Khâm Đức.

Tất cả 10 phi cơ điều không FAC bay bao vùng trên không phận Khâm Đức ngày 12 tháng Năm. Họ làm việc trong toán ba chiếc FAC “lên ca” làm việc 2 giờ đồng hồ. Hai chiếc bay dưới cao độ thấp dọc theo hai bên phi đạo, chiếc thứ ba bay trên cao quan sát tổng quát. Hai chiếc FAC bay thấp liên lạc, yêu cầu xử dụng loại vũ khí bom đạn nào cho mục tiêu, rồi báo lên cho Hillsboro. Hillsboro sẽ chọn phi cơ nào mang theo loại vũ khí yêu cầu, thông báo cho chiếc FAC bay trên cao điều động cho phi cơ đánh mục tiêu.

Khoảng 8 giờ sáng, một khu trục A-1 Skyraider tấn công ổ súng phòng không của địch, bị trúng đạn bốc khói, ông ta vội bay lên cao rồi bắn dù ra. Viên phi công nhẩy dù xuống một ngọn đồi cây lá rậm rạp cách đầu hướng nam phi đạo khoảng 100 yards (khoảng 30 m). Một trực thăng chở quân UH-1 Huey (slick) trông thấy vội bay đến cứu ông ta, hai trực thăng võ trang (gunship) bay theo yểm trợ, cứu thoát viên phi công A-1 Skyraider đưa về căn cứ Chu Lai.

Chiếc trực thăng CH-47 đầu tiên đang hạ thấp cao độ xuống, một tràng đại liên phòng không bắn vào chiếc trực thăng làm hư hệ thống nước, bốc cháy từ trong bụng phi cơ lan vào buồng lái. Chiếc trực thăng bốc cháy rơi mạnh phần đuôi xuống phi đạo, mũi trực thăng vẫn còn trên không. Ba nhân viên phi hành vội nhẩy ra ngoài chiếc trực thăng đang bốc cháy. Tiếp theo, mũi chiếc trực thăng đập mạnh xuống phi đạo rồi lật nghiêng trên phi đạo, bốc cháy.

Chiếc trực thăng CH-47 Chinook bốc cháy gây khó khăn cho phi cơ có cánh đáp xuống, và lửa cháy làm chẩy lớp nhựa đường trên phi đạo làm thành một lỗ hổng lớn. Một ngưòi lính công binh đang sửa chữa phi đạo chứng kiến chiếc trực thăng bốc cháy, vội lái xe ủi đất chạy lại ủi chiếc trực thăng qua phiá bên kia phi đạo, lấy chỗ cho các phi cơ vận tải C-130 đáp xuống di tản binh sĩ, thường dân (vợ con binh sĩ …)

Lúc 8 giờ 30 phút sáng, Tướng Không Quân William Momyer, phụ tá Không Yểm cho Tướng Westmoreland tuyên bố trường hợp khẩn cấp cho trại LLĐB Khâm Đức. Đó là lần đầu tiên, ông ta xử dụng quyền cấp chỉ huy duy nhất phối hợp giữa các quân binh chủng: Hải, Lục, Không Quân và TQLC trên chiến trường Việt Nam.

Phi cơ điều không phối hợp hỏa lực cấp cứu Hillsboro điều động 120 phản lực của Không Quân (Hoa Kỳ) gồm F-4 Phantom, F-100 Voodoo, F-105 Thunderchief, và A-1 Skyraider trong miền nam và Thailand, 16 phản lực A-4 Skyhawk của TQLC/HK trong miền Nam, và 6 phản lực A-5 Không Quân VNCH, và các phi cơ của Hải Quân Hoa Kỳ xuất phát từ ba hàng không mẫu hạm ngoài khơi vịnh Bắc Bộ và biển Việt Nam.

Đến 9 giờ 36 phút sáng, quân Bắc Việt tập trung nơi hướng bắc và hướng tây phi đạo mở trận tấn công, nhưng bị đẩy lui trước sự yểm trợ hữu hiệu của pháo binh và phi cơ chiến thuật. Khi địch quân rút lui, các phi cơ chiến thuật bay ra khỏi khu vực Khâm Đức đến một điểm nào đó, đợi lệnh từ phi cơ điều không FAC quay trở lại nếu cần thiết. Quân bộ binh Bắc Việt trên mặt đất không biết tử thần, thiên lôi vẫn rình rập trên bầu trời.

Trong ngày 12 tháng Năm, 41 phi vụ trực thăng Lục Quân CH-47 Chinook, khoảng 30 phi vụ trực thăng CH-46 của TQLC/HK, và 12 phi vụ trực thăng Lục Quân UH-1 (Huey) vào di tản hàng trăm người, thường dân lẫn binh sĩ, cả Mỹ lẫn Việt. Nhiều phi công “lạnh cẳng” bay về không dám đáp xuống trại LLĐB Khâm Đức, có người vừa đáp xuống nghe tiếng súng đã vội cất cánh. Chỉ những phi công thật can đảm, bình tĩnh đáp xuống, đợi cho người di tản lên đầy trực thăng mới cất cánh.

Viên sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 14 Không Trợ Chiến Đấu cùng các phi công trực thăng UH-1 Huey làm nhiệm vụ điều hợp, liên lạc với các phi công trực thăng CH-47 của Lục Quân và CH-46 TQLC, và cả phi cơ vận tải Không Quân C-130, cho họ biết hướng nào tốt nhất để lái chiếc C-130 vào đáp trên phi đạo Khâm Đức lúc đó đang bị pháo kích.

Khoảng 10 giờ sáng, chiếc C-130 đầu tiên đến Khâm Đức được một khu trục A-1 Skyraider và một phản lực F-4 Phantom hộ tống, đáp xuống giữa tiếng nổ của đạn pháo kích của địch, một qủa rơi cách mũi phi cơ khoảng 10 thước làm hư kính chắn gió (buồng lái). Đạn đại liên trúng thùng xăng nơi cánh và bể một bánh. Phi công vội cất cánh bay đến phi trường Cam Ranh gần hết nhiên liệu phải đáp trên lớp bột chống cháy.

Các phi cơ C-130 khác được lệnh quay về, hủy bỏ phi vụ. Quân bộ binh, công binh Hoa Kỳ được lệnh phá hủy những quân dụng nặng, chuẩn bị trường hợp phải di tản bằng bằng cách lội bộ. Gần hết buổi sáng, một phi cơ FAC O-2 đang điều khiển trận oanh kích trúng đạn phòng không phần đầu một cánh, bộ phận lái bị hư hại, cố gắng đáp xuống phiá đông phi đạo để trống phi đạo cho phi cơ C-130 đáp.

Các phi cơ tản thương bay liên tục, một chiếc UH-1H tản thương, di tản được 125 người bị thương cả Mỹ lẫn Việt, dân sự hay quân nhân, một chiếc khác di tản được 175 người. Hai trực thăng võ trang (gunships) hộ tống một trực thăng tải thương đến trạm quan sát (OP), bị bắn rơi, một chiếc đáp xuống phía đông, chiếc kia rơi gần phi đạo.

Chiếc C-130 thứ hai đáp xuống Khâm Đức, đang trên thi hành nhiệm vụ, được lệnh khẩn cấp đổi hướng bay lên Khâm Đức, chưa được báo cáo về tình hình địch trong khu vực. Chiếc phi cơ này bay đến từ hướng tây nam, viên phi công có thể nghe tiếng súng AK-47, đại liên của địch. Viên phi công đáp xuống gữa phi đạo, mở cửa sau, rồi thì 183 thường dân Việt Nam nhanh chóng chạy lên phi cơ. Chiếc C-130 tiếp tục cất cánh, lên ngang trên đầu ổ súng đại liên phòng không nơi đầu phi đạo. Lính Bắc Việt bắn lên trúng đầy bụng chiếc phi cơ cả trăm viên đạn, chiếc C-130 rơi xuống đất nổ tung, tất cả mọi người trên chiếc máy bay đều thiệt mạng,

Một trực thăng CH-47 Chinook đáp xuống nơi đầu hướng bắc phi đạo, năm mươi binh sĩ Hoa Kỳ chạy lên chiếc phi cơ. Chiếc trực thăng quá tải không thể lên thẳng đứng, phải bay là là lấy độ cao. Khi lên đến độ cao 800 bộ, chiếc trực thăng trúng mưa đạn súng phòng không, hư bộ phận điều khiển, và bốc cháy trong buồng lái. Chiếc trực thăng đảo qua lại, quay vòng không điều khiển được, rơi xuống đất. Binh sĩ tranh nhau hỗn loạn chạy ra khỏi chiếc trực thăng đang bốc cháy. Một binh sĩ y tá sư đoàn Americal bên này phi đạo chứng kiến chiếc trực thăng rớt, anh ta chạy băng qua phi đạo đến chiếc trực thăng đang bốc cháy, lôi một người bị thương ra, cõng đến khỗ an toàn, băng bó vết thương cho anh ta. Qua hành dộng anh hùng này, Binh Nhất William Bledsoe được thưởng huy chương Thập Tự Ngoại Hạng (chỉ thua huy chương Danh Dự - Medal of Honor).

Trên bầu trời Khâm Đức, hai phi cơ thám thính RF-4, RF-5 chụp ảnh trận tấn công trại LLĐB Khâm Đức gửi về bộ chỉ huy Tướng Momyer, rửa ảnh rồi phân tích trình lên cho ông ta ngay tức khắc. Hình ảnh cùng những báo cáo từ Khâm Đức gửi về cho Tướng Momyer biết tình hình trại LLĐB Khâm Đức rất nguy kịch. Mặc dầu đã mất 7 máy bay ngày hôm đó và 2 chiếc hôm trước, ông ta ra lệnh tiếp tục cho C-130 vận tải cơ vào di tản bằng mọi giá.

Chiếc C-130 kế tiếp đã được báo cáo về tình hình địch, và chứng kiến chiếc C-130 trước đó bị bắn rơi, bốc cháy. Khi chiêc phi cờ vừa chạm mặt đất, phi hành đoàn nhanh chóng mở cửa sau cho hơn 100 thường dân, DSCĐ, và binh sĩ Hoa Kỳ chạy lên, rồi xoay đầu chạy trở lại trên phi đạo cất cánh. Mặc dầu trúng nhiều đạn súng AK, chiếc phi cơ lết về đến Cam Ranh.

Chiếc C-130 kế tiếp đang trên đường đáp xuống, khi còn cách phi đạo 300 bộ, chiếc phi cơ trúng đạn đại liên phòng không, trúng ống dẫn xăng, hư hệ thống điều khiển. Sợ nằm trên phi đạo ngăn cản các phi cơ khác đáp xuống, viên phi công ủi xuống ruộng. Họ nhanh chóng chạy ra khỏi chiếc phi cơ rồi được một trực thăng CH-46 TQLC/HK bốc đưa về an toàn.

Tiểu đoàn bộ binh sư đoàn Americal đến tiếp viện được di tản gần hết, chỉ còn lại toán A LLĐB/HK, đơn vị SOG (Nha Kỹ Thuật – Lôi Hổ) và binh sĩ người Thượng vẫn chưa bỏ đơn vị. Lúc đó quân đội Bắc Việt nhận thức rằng, số quân Hoa Kỳ, VNCH trong trại LLĐB Khâm Đức không còn nhiều và số phản lực Hoa Kỳ lên bao vùng càng nhiều, tốt nhất để cho họ (Mỹ-Việt) di tản để bảo tồn lực lượng.

Chiếc C-130 thứ năm đáp xuống bốc được khoảng 150 thường dân binh sĩ DSCĐ và binh sĩ Hoa Kỳ. Chiếc thứ sáu xuống bốc được 130 người trong đó có phần còn lại của tiểu đoàn bộ binh sư đoàn Americal. Chiếc C-130 cuối cùng đáp xuống khi trại LLĐB Khâm Đức bị bom Napalm đốt cháy, chiếc này bốc được gần 100 người. Chiếc máy bay cuối cùng rời trại LLĐB Khâm Đức là trực thăng CH-47 Chinook chở toán quân Mũ Xanh Hoa Kỳ cùng ban chỉ huy trại LLĐB.

Đến 5 giờ 30 phút chiều ngày 12 tháng Năm, trận mưa lớn đầu mùa bao phủ thung lũng Khâm Đức, tất cả các hoạt động không trợ phải ngừng lại. Tổng kết 46 quân nhân Hoa Kỳ tử trận, bị thương nặng hoặc bị bắt (mất tích). Tại căn cứ nhỏ Ngok Tavak, 15 TQLC/HK, 2 LLĐB/HK tử trận. Trong khu vực trại LLĐB Khâm Đức, 20 lính bộ binh (sư đoàn Americal), 7 nhân viên phi hành Không Quân, 1 lính Pháo Binh, và 1 sĩ quan Mũ Xanh Hoa Kỳ tử trận. Khoảng 130 trong tổng số 433 binh sĩ người Thượng (Mike Force và DSCĐ) trong trại LLĐB Khâm Đức và Ngok Tavak tử trận hoặc mất tích.

Mười hai phi cơ bị rơi (mất) trong khu vực Khâm Đức và Ngok Tavak từ ngày 10 đến 12 tháng Năm 1968: 2 C-130, 2 CH-47, 2 CH-46, 3 UH-1, 1 A-1E, 1 O-2 và 1 O-1. Có tin nói thêm, một phản lực F-4 Phantom, 1 A-4 Skyhawk bị rơi trên đường bay về, và một phi công không bắn dù ra được tử nạn. Các phi công anh dũng cứu được hơn 1000 người, kẹt lại 37 người Hoa Kỳ, trong đó 3 người được cứu thoát, sau khi chạy trong rừng được bốn ngày.

Quân đội Bắc Việt xử dụng hai trung đoàn quân số khoảng 5000 người tấn công trại LLĐB Khâm Đức và Ngok Tavak. Họ bị tổn thất 50% vì phi pháo khoảng 1800 đền 2500 quân.

Theo tài liệu:

James D. McLeroy, “The Battles of LangVei and Kham Duc”, Radix Press 1969, pp: 53 – 73.

Dallas, Texas Aug. 19, 2023

vđh

Previous
Previous

60 năm Đảo chính 1-11-1963 TT Ngô Đình Diệm bị thảm sát

Next
Next

Thiên Hùng Ca dựng một ngọn cờ