Thêm một Mùa Giáng Sinh sắp tới nơi quê người
Mường Giang
Thế là Giáng Sinh sắp đến, ngày mai ta lại trở về quê hương mở hội mừng Chúa ra đời. Ôi giấc mơ chiêm bao mộng mị bao mùa, chưa chi đã làm cho cõi hồn người viễn khách bồi hồi trong ngấn lệ khi chợt nghĩ tới những trang lưu bút ngày xanh, thơ ngây ngọt ngào, nay chỉ còn lại trong men nồng đắng lệ.
Tỉnh nhỏ ngày xưa những trận mưa bay cuối Thu làm cho Phan Thiết đêm mù như cõi mộng. Bài thánh ca “Ðêm Ðông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Ðời”, thường được em hay hát nho nhỏ, khi hai đứa đứng núp đưới mái hiên mưa, lặng đếm những cánh hoa sao quay tít ở trên đầu, để rồi thở dài trước một mùa đông đã đến.
Tất cả bây giờ chỉ còn trong kỷ niệm của những ngày thân ái bên nhau trong giáo đường. Tôi, một kẻ ngoại đạo nhưng yêu em, nên cũng hát thánh ca và thường quỳ giữa hai hàng nến trắng. Buổi đó, cuộc đời thật thơm ngát, theo những cánh hoa huệ trắng nở rộ ngọt ngào, trong lòng mọi người. Nhưng dòng đời ai biết được, là trong tiếng nhạc Organ cao vút, không phải chỉ có lời thánh thiện lướt bay như sóng cuộn, mà còn có tiếng pha lê rơi vỡ nát của một cuộc tình. Rồi những mùa Giáng Sinh bất chợt, kẻ viễn khách lại tìm tới các giáo đường xa lạ, lắng nghe tiếng chuông đổ xào xạc trên lầu cao, để tưởng như mình đang hứng những giọt nước mắt ngày xưa, của tôi của em, như hai hàng bạch lạp chảy trong đêm thánh vô cùng.
Tàn mùa chinh chiến, người lính trận lỡ bước xa nhà, lang thang khắp thôn làng thị trấn nào đó, vào đêm Giáng Sinh mừng Chúa ra đời. Lúc đó chỉ còn có mình ta, bước lẽ loi trong giáo đường xa lạ, nhìn người để thương nhớ cho số phận buồn hiu của cuộc đời, mà phần lớn tuổi trẻ đã đi trên giàn lửa và sống kiếp lang thang mây chiều.
Xóm Cồn-Hạ Uy Di, mấy hôm nay trời bổng trở lạnh theo mùa đông tới. Sau Lễ Tạ Ơn, cuốn lịch treo tường đã thấy mỏng dần, chỉ lật thêm mấy tờ là tới lễ Giang Sinh và Tết Dương Lịch. Các cửa hàng khắp thành phố đã bắt đầu trang hoàng đủ thứ,nào thông xanh, ông già Noel, đèn nến, hoa sao, cũng như mở nhạc Giáng Sinh,.làm cho hồn thêm xao xuyến,chạnh nhớ lại những mùa lễ hội tại quê nhà trước năm 1975. Ở đây, cảnh nhộn nhịp chỉ kéo dài tới chiều ngày 24-12 là chấm dứt. Tất cả hàng chợ đều đóng kín, mọi người ai cũng trở về nhà sum họp với gia đình, bè bạn, trong những căn nhà ấm cúng, giữa tiệc rượu vui vẽ, hạnh phúc.
Giáng Sinh đang đến gần, tiết trời cũng bớt se lạnh khi trận mưa đông cuối mùa sắp dứt. Nhìn người người nô nức chuẩn bị, khiến lòng hằng mơ ước, mùa yêu thương vĩnh cửu sẽ luôn tới với mọi người, để xin Chúa Hài Ðồng ban bình an thật sự cho nhân loại. Hàng khối quà tặng giữa những tấm thiệp chúc tụng bay như bươm bướm và các tiệc yến linh đình, biến tuần lễ cuối tháng 12 Dương Lịch thành mùa lễ nhộn nhịp và quan trọng nhất trong năm.
Có một sự lạ lùng mà ít người để ý tới, đó là khi những cơn gió mùa đông bắt đầu thổi về lành lạnh, chỉ đủ làm ửng hồng những đôi má đẹp hay làm rạng rỡ thêm mấy chiếc áo len hương ấm, cũng là lúc có một loài hoa đang âm thầm chuyển mấy cánh lá noãn từ xanh ra màu đỏ. Mọi người bảo đó là Hoa Giáng Sinh và ngoài kia Hoa cũng đang rực rỡ, báo hiệu một mùa Giáng Sinh sắp tới.
1- Ði tìm tung tích của các danh từ, liên quan tới Giáng Sinh:
Xưa nay nhiều người hay lẩn lộn về nguồn gốc của các danh từ ngoại quốc liên quan tới ngày lễ Giáng Sinh như Noel hay Christmas.
Theo hầu hết các bộ từ điển thông dụng, nên ta biết “Noel” là Pháp ngữ, thoát thai từ tiếng La Tinh “Natalis”, chứ không phải là tiếng Do Thái cổ. Sự lầm lẫn trên phần lớn là do bản gốc của Kinh Thánh, trong phần Cựu Ước, hoàn toàn được viết bằng chữ Do Thái Cổ. Về sau mới được dịch ra tiếng Hy Lạp và La Tinh. Theo từ nguyên, chữ “Natalis dies” của La Tinh, có nghĩa là Ngày Sinh Nhật hay Sự Ra Đời. Về sau, để tiện gọn, các nhà Ngôn ngữ học, đả bỏ bớt chữ “Dies”, mà nói tắt là “Natalis”, để chỉ ngày sinh. Hình thức nói tắt này, chính là nguồn gốc (Étymon) của danh từ “Noel” mà ta dùng tới ngày nay. Ðây là luật biến đổi ngữ âm của văn phạm La Tinh, dùng hoán chuyển các tiếng gốc sang Pháp ngữ ngày xưa, chẳng hạn như Natalis - Nael - Noel..
Từ tiếng gốc có nghĩa chung là “Sinh Nhật”, dần dần người ta viết hoa chữ Noel, đồng thời bỏ thêm hai chấm trên đầu chữ E, một hình thức phủ nhận chữ e này không thể kết hợp với chữ O đứng trước, để trở thành một Nhị Trùng Âm (Diphtongne), như các chữ thông thường khác. Dụng ý của người xưa là vậy. Từ đó chữ Noel, trên đầu có hai chấm, viết hoa, chỉ dùng để chỉ ngày sinh của Chúa Jesus mà thôi.
Riêng chữ Christmas cũng là một tiếng Anh cổ, được kết hợp bởi hai thành tố: Christ chỉ Chúa Jesus, còn “Mas”, qua biến thể của chữ Mass cổ, có nghĩa là Lễ của Nhà Thờ hay Lễ Hội. Hình thức của Mas (mass), một thứ tiếng Anh cổ, cũng có gốc từ chữ Latinh là Missa với nghĩa “Lễ nhà thờ “.Trong tiếng Pháp, cũng có chữ “ Messe”, được Việt hoá thành “ Misa”, cũng có nghĩa là Lễ Nhà Thờ. Cuối cùng là vấn đề biến dạng từ chữ “ Christmas “ sang “ Xmas “.Như ta biết, danh từ Christ tuy là tiếng Anh nhưng có từ nguyên là tiếng La Tinh “ Christus “ mà ra. Nhưng chữ La Tinh này lại được mượn từ tiếng Hy Lạp “ Khrislos “, có nghĩa là Người được xức dầu thành, chỉ Chúa Jesus. Do các quy luật phức tạp chuyển ngữ các chữ cái, giữa hai ngôn ngữ trên, nên mới có biến thể từ Christmas sang Xmas, nhưng khi đọc, vẫn là Christmas, chứ không bao giờ là Xmas.
Nói chung dù các chữ Noel, Christmas, Xmas xuất phát từ đâu chăng nữa thì tựu trung đều có nghĩa chỉ ngày Giáng Sinh của Chúa Jésus, mà theo truyền thuyết nhằm ngày 25-12 năm 1 tại Bethleem, cách thành phố Jerusalem của Do Thái, độ 9 km. Riêng chữ Advento của La Tinh, mà các tín đồ Thiên Chúa giáo quen gọi là mùa Ắt hay mùa Vọng, một nghi thức truyền thống, cũng được cử hành riêng biệt tuỳ theo tập quán của các nhà thờ. Theo đó qua thánh lễ lâu đời, trước một tháng lễ sinh nhật, có tục đặt bốn cây nến, tượng trưng cho sự trong lành của Thiên Chúa, soi sáng nhân loại. Cũng trong mùa Vọng, giáo đồ không hát kinh GLORIA, cũng như khi cử hành thánh lễ, các linh mục và bốn cây nến mùa vọng, đều mang màu tím, là một biểu tượng của sự sám hối đối với người theo đạo Ky Tô.
2- Những Tập Tục Trong Ðêm Giáng Sinh:
Trải qua 200 năm đầu của Tây Lịch, theo sử liệu cho biết các nhà thờ lúc đó đang kiểm soát gắt gao đạo Thiên Chúa, đã không tổ chức Lễ Giáng Sinh. Lý do là lúc đó, không có ai biết được một cách chính xác, ngày sinh của Chúa Jésus, ngay cả trong bốn “Sách Tin Mừng” cũng không hề nhắc tới. Do trên các Giáo hôi lúc đó, chỉ để ý tới Cuộc Tử Nạn và Mùa Phục Sinh của Chúa mà thôi.
Từ sau năm 201, mới bắt đầu có tổ chức mừng sinh nhật Chúa Hài Ðồng. Tuy vậy giữa hai Giáo Hội Ky Tô tại La Mã và Ðông Phương cũng không thống nhất. Nói chung, các nước lúc đó thường tổ chức Lễ Giáng Sinh vào các ngày 6-1, 25-3 và 25-12.. tùy theo tập quán lễ hội của quốc gia mình. Phải đợi tới giữa thế kỷ thứ 4, năm 335 sau Tây Lịch, cả hai Giáo Hội Thiên Chúa La Mã và Ðông Phương, mới nhất thống, cử hành Lễ Giáng Sinh vào đêm 25-12 hằng năm, cho tới bây giờ.
+ Lễ Giáng Sinh:
Mùa Giáng Sinh được người Ðức gọi là “Weihnachten”, tức là những đêm Thánh vô cùng. Riêng những danh từ “Natale” của Ý, “Noel” của Pháp, “Natividad” Tây Ban Nha hay “Christmas” của Anh, Mỹ, Canda.. đều có nghĩa là Sinh Nhật Chúa. Ðây là một lễ hội, được gắn liền với nhiều tục lệ cổ truyền, đã có từ ngàn năm trước nhưng tới nay vẫn được chấp nhận. Nhờ đó đã giúp cho lễ Giáng Sinh đầy ý nghĩa và thêm vui nhộn.
Lễ này bắt đầu từ các lễ hội dân gian truyền thống hằng năm của các dân tộc Âu Châu. Năm 335, Hoàng Ðế La Mã Constantin khởi xướng, lấy ngày 25-12 làm sinh nhật Chúa Jésus và đã trở thành ngày sinh nhật hằng năm của Ðấng Cứu Thế. Thật ra lý do chọn ngày 25-12 rất hợp lý, nhất là đối với các dân tộc sống bên hai bờ Ðịa Trung Hải như Ai Cập, Syrie, Hy Lap, La Mã.. vì đây cũng là ngày kỷ niệm Vị Thánh Bổn Mạng của Họ, tức là Vị Thần Mặt Trời Chiến Thắng Sol Invictus. Còn đối với các xứ Bắc Âu, sau khi đã trải qua một mùa đông giá băng lạnh cóng, suốt những ngày thu phân cho tới 25-12. Ðây là thời điểm sắp giao mùa, giữa đông sang xuân, ngày dài đêm ngắn, mà ai cũng thích, nên họ mở hội ăn mừng. Ngay người Ba Tư tận Nam Á, cũng có phong tục mừng sinh nhật của Thần Ánh Sáng Mithras vào đúng vào ngày 25-12 hằng năm. Nhưng lý so chính, khiến cho Hoàng Ðế La Mã Constantin, cũng như nhân loại, đã hân hoan chọn ngày trên làm ngày sinh nhật Chúa, nguyên do vì năm đó, có ngôi sao Bethlehem đầu tiên, đã xuất hiện rực rỡ giữa bầu trời đông băng giá.
+ TỤC KÉO CỦI VÀ ĂN ÐẦU HEO:
Trong đêm Giáng Sinh, người Bắc Âu sẽ cùng nhau kéo một khúc gỗ sồi, được mang từ rừng về, gây nên cảnh tượng rất vui nhộn khi mọi người gặp nhau đều ngả nón hay cười vui chào hỏi. Tại nhà, khúc củi được đốt lên bằng mồi lửa được giữ từ tro than năm ngoái. Khúc lửa này sẽ được chủ nhân giữ trọn năm, vì mọi người đều tin rằng lửa sẽ giữ được cho ngôi nhà của họ quanh năm được ấm cúng hạnh phúc, tránh được tật bệnh thiên tai từ bên ngoài đem tới.
Cũng ở Bắc Âu ngày xưa, người ta tin rằng Vị Thần Ðiều Khiển Ngũ Cốc cư ngụ ở trong đầu heo, nên cứ đến ngày lễ Giáng Sinh, lại có tục giết heo làm thịt ăn, với hy vọng mùa màng thêm trúng. Ngày nay vùng này, trong đêm lễ, chiếc đầu heo thật được thay bằng những ổ bánh hình con heo.
+ HOA Giáng Sinh:
Tại Việt Nam, người ta gọi nó là hoa Trạng Nguyên, theo truyền thuyết từ một câu chuyện cổ tích diễm tình. Ngày xưa có một sĩ tử trên đường vào kinh đô ứng thí, đã nhìn thấy một giống cây lá xanh, mọc tha thướt bên vệ đường. Khoa đó ông đỗ trạng nguyên và trên đường về vinh quy bái tổ, bất chợt gặp lại cây lá xanh bên đường hôm nào. Nhưng hôm đó nó đã biến đổi một cách kỳ diệu, vì những cánh lá xanh nõn nường trên ngọn, nay trở thành màu đỏ thắm, như đang đồng điệu với thế nhân, chúc người thi đổ. Cảm khái, ông đã không ngần ngại ban cho giống hoa tình nghĩa trên một mỹ danh “Hoa Trạng Nguyên” và được lưu giữ tới ngày nay.
Ðây chính là giống cây mà hằng năm trên thế giới người ta dùng trang trí trong ngày sinh nhật và họ gọi là Hoa Giáng Sinh (Christmas Flower). Ðây là một loại hoa rất đặc biệt, vì hoa cũng là lá và lá cũng là hoa với một cụm lá màu đỏ ở trên đỉnh, được bao quanh bởi đám lá xanh. Ở Ðông phương, giống hoa này cũng rất được yêu thích và được gọi bằng những cái tên khả ái như “Nhất Phẩm Hồng” (Trung Hoa) hay “Tinh Tinh Mộc” (Nhật Bản ). Nhưng dù mọc ở đâu hay được gọi bằng một cái tên nào chăng nửa, nó vẫn là biểu tượng của sự cao quý, dịu dàng và mộc mạc, rất phù hợp với tâm lý của người đàn bà VN. Có lẽ vậy, nên ở miền quê, hoa này thường được trồng trước ngõ hay trên rào giậu như dâm bụt, với ngụ ý chào mừng khách quý. Là giống cây thân mềm,lá xanh ẻo lã rất giống các thiên kim tiểu thư và chỉ chuyển đổi màu lá từ xanh sang đỏ, trong thời gian nhất định, giữa tuần lễ từ Giáng Sinh tới Tết Nguyên Ðán mà thôi. Ngoài ra, thời tiết càng lạnh lẻo, thì hoa càng có màu sắc rực rỡ.
Theo truyền thuyết của phương Tây thì hoa này có liên hệ với Chúa Jésus,bởi chúng được tạo thành từ những giọt máu cuối cùng của Ngài, khi bị đóng đinh trên cây thập giá. Chính màu máu tươi đã nhuộm màu lá xanh thành đỏ thắm và chính giữa có những nhụy vàng. Cũng do tính chất thần thánh trên, mà hầu hết các thiệp chúc và bánh Giáng Sinh, gần như đều có in hình cánh hoa truyền thống này.
+ CÂY Giáng Sinh:
Trước khi đạo Thiên Chúa vào Âu Châu thì trong các cuộc lễ hội tại Ý, Tây Ban Nha và nhiều nước khác, người ta dùng hoa để trang hoàng. Nguyên do vì quan niêm của nhà thờ lúc đó, cho rằng thông có liên hệ tới nhiều tôn giáo khác. Còn Thụy Ðiển thì bảo cây thông là biểu tượng của chết chóc và tang tóc. Ngoài ra cũng được coi là cây Giáng Sinh, còn có cây ô rô cũng thường được dùng để trang trí trong mùa lễ. Sở dĩ nó được chọn như thông, vì những chiếc lá gai gốc của ô rô, rất giống chiếc vòng gai của Ðấng Cứu Thế, còn những quả màu đỏ mọng, lại được coi như những giọt máu tươi chũa Chúa khi bị đóng đinh trên cây thập tự giá.
Bắt nguồn từ cây Sapin ở Bắc Âu, cây thông đã được người Thủy Ðiển mang vào nước Ðức trong cuôc chiến 30 năm (Gueere de Trente Ans). Theo sử liệu của Ðứ, thì cây thông chính thức được nhắc tới năm 1605. Tuy nhiên thực tế trước đó, người Ðú+c vùng Elsass và Hắc Lâm, theo đạo Thiên Chúa Cải Cách của Mục Sư Martin Luther (1483-1546), đã dùng cây thông để trang trí trong ngày lễ Giáng Sinh. Chính Luther là người đầu tiên đặt những ngọn nến lên cây Giáng Sinh và gọi đó là những biểu tượng của các vì sao trong đêm sinh nhật. Ngoài ra cây thông còn là biểu tượng của dân Ðức chống lại Nã Phá Luân.
Ðến thế kỷ thứ XIX, thông theo đoàn quân viễn chinh của Phổ, vượt biển Manche vào quần đảo Anh Cát Lợi và Ái Nhĩ Lan. Thông sau đó lại được công chúa nước Anh là Mercklembourg, khi thành hôn với công tước Orléans, đã mang thông vào nước Pháp. Cũng từ đó, thông chính thức được thay thế các loại hoa, để trang trí vào dịp lễ Giáng Sinh. Cũng theo sử liệu, thì việc trang trí bánh kẹo trên cây Giáng Sinh tại nước Anh, bắt đầu từ thời Nữ Hoàng Victoria. Năm 1880, hãng Wooworld của Mỹ, lần đầu tiên khởi xướng đầu tiên việc bán các đồ vật treo trên cây giang sinh. Năm 1882 bóng điện được thay nến để trang trí. Tai Mỹ, Calvin Loolidge là vị tổng thống đầu tiên, thắp sáng cây thông trồng phía ngoài Tòa Bạch Ốc vào năm 1923.
Thông hiện nay là một biểu tượng của mùa Giáng Sinh, được trưng bày hầu hết mọi nơi, từ công sở, chốn công cộng, các cửa hiệu cho tới trong gia đình. Tại Hoa Kỳ vào dịp lễ Giáng Sinh,, dân chúng tiêu thụ khoảng 20 triệu cành hay nguyên cây thông. Với chiều cao 67,4m cây thông được coi là cao nhất thế giới, được dựng tại Northgate Shopping Center, thành phố Seatle, Tiểu bang Washington. Ðài Loan và Nam Triều Tiên, hiện là hai quốc gia Á Châu sản xuất nhiều thông giả nhất thế giới, trong khi các Tiểu bang North Carolina, California, Pennsylvania, Wiscosine, Michigan, Oregan.. trồng nhiều thông nhất Liên Bang, để cung cấp cho dân Mỹ trong mùa lễ Giáng Sinh.
+ ÔNG GIÀ NOEL VÀ TỤC TẶNG QUÀ Giáng Sinh:
Ðó là một người có thật, sau trở thành Thánh Nicholas sống vào thế kỷ thứ 4 sau TL. Ông tên thật là Santa, sinh tại Patara thuộc miền Lycya những sống tại Myra, nay thuộc Thổ Nhỉ Kỳ. Theo sử liệu, ông là người có tính tình vị tha nhân ái, thường lấy tài sản của mình, để phân phối cho người nghèo, trẻ em. Vào mùa lễ Giáng Sinh, ông thả những túi đựng tiền vàng, xuống ống khói lò sưởi hay ném qua cửa sổ, những bít tất dài trong đó dựng đầy quà, dành cho trẻ em nghèo. Năm 325 ông được phong chức giám mục tại Nicaca nhưng lúc qua đời thì chôn tại nhà thờ Myra và được phong thánh. Cũng từ đó, trong mùa lễ phục sinh, tòa Thánh La Mã đã phối họp mừng chung với thánh Nicholas. Năm 1087, người ta đánh cắp thi hài của ông, đem về chôn tại nhà thờ Bari của nước Ý. Sự kiện trên càng làm tăng thêm mức khả tín của người Âu Châu đối với nhân vật huyền thoại Santa. Do đó ông trở thành vị Thánh bổn mạng của Hy Lạp và Nga. Nhiều thành phố lớn như Fribourg (Thụy Sĩ), Mạc Tư Khoa (Nga).. đều tôn vinh Santa như vị cha già. Uy tín to lớn của ông đến nổi ngay từ tời Hoàng Ðế La Mã Jutinta I trị vì thế kỷ thứ VI cũng đã cho xây nhà thờ tại Constantinople. Từ đó về sau, khắp thế giới, đã có hằng ngàn nhà thờ lớn nhỏ, mang tên ông.
Nhưng từ khi đạo Tin Lành ra đời tại Âu Châu, thánh Nicholas bị xem là người của đạo Thiên Chúa, nên không còn được tôn trọng, trừ Hòa Lan. Từ đó, lại có các ông già Noel khác ra đời như Weihnachtsmann (Ðức), Pere Noel (Pháp), Father Christmas (Anh), Santa Claust hay Saint Nick (Hoa Kỳ).. Tuy nhiên dù được mang một tên gì chằng nửa, thì củng chỉ một hình thức biến dạng từ chữ gốc Saint Nicholas mà thành. Tại New York, những người Mỹ gốc Hòa Lan, được coi là dân tộc đầu tiên mang ông già Noel từ Âu Châu vào Bắc Mỹ. Họ gọi thánh Nicholas là San Nicholaas, sau đó là Sant Klaus và cuối cùng trở thành Santa Claus tời ngày nay.
Ngoài đời ông xuất hiện như một người bình thường. Ðó là ông già béo tốt, râu tóc bạc phơ nhưng đôi má lại đỏ au, luôn mặc bộ quần áo đỏ, tượng trưng cho hạng người vui vẽ, độ lượng và chân thành. Vì xuất phát từ miền bắc cực, đúng vào mùa đông, nên thường ngự trên một chiếc xe tuyết do bốn hay sáu con hươu kéo đưa ông dạo chơi khắp nơi. Ðặc biệt trên vai ông lúc nào cũng vác một chiếc bị lớn đựng quà bánh và đồ chơi cho các trẻ em.
Cũng liên quan tới ông già Noel, có tục tặng quà trong mùa lễ Giáng Sinh. Ðây cũng là một tập quán lâu đời của người La Mã cổ, với thói quen hay tặng quà cho nhau, trong các dịp lễ hội hay Tết Dương Lịch. Ngoài ra theo truyền thuyết ghi trong kinh thánh, sau khi Chúa sinh ra đời được 12 ngày, thì ba Vua mới mang lễ vật tới chúc mừng. Vì vậy ngày nay, tại các nước Ý, Tây Ban Nha và nhiều nước theo Ky Tô giáo, trẻ em nhận được quà sau khi Giáng Sinh, đã qua 12 ngày.
Tại Hoa Kỳ, năm 1822 thi sĩ Clement Moore đã viết bài thơ “ Ðêm Trước Giáng Sinh “ đưa thêm uy tín của Thánh Nicholas lên đỉnh yêu thương của mọi người, còn họa sĩ nổi tiếng Nast, qua các bức hí họa, làm cho hình ảnh của ông già Noel, càng đi sâu vào tâm hồn của người trần thế.
+ BÍ ẨN VỀ NGÔI SAO BETHLEHEM:
Theo thánh kinh, Bethlehem là ngôi sao lớn và sáng nhất giữa bầu trời, trong đêm Chúa sinh ra đời. Vì vậy qua các tranh ảnh vẽ hình Chùa Jésus, bao giờ cũng có một ngôi sao chiếu sáng rực rỡ. Chính nó đã dẫn đường Ba Vua tìm tới được hang lừa, nơi Chúa ra đời trong một đêm đông lạnh lẽo.
Ðể tìm hiểu vị trí của ngôi sao Bethlehem, các nhà thiên văn học trên thế giới đã dày công nghiên cứu, hiện tượng Supermova, tức ngôi sao mới sớm nở tối tàn. Ðối với bậc thông thái như Ba Vu, thì họ chẳng cần tới ngôi sao Bethlehem dẫn đường mới tới được Jérusalem, vì họ là những nhà tiên tri biết được chuyện vị lai quá khứ.
Tháng 5 năm thứ 5 trước TL, thiên văn học Trung Hoa lúc ấy đã ghi nhận được, sự xuất hiện của một ngôi sao chổi đặc biệt, đang quét trên bầu trời Nam Dương, trong suốt 70 ngày. Ðây cũng có thể là thời gian Ba Vua đang trên đường tới hang đá ở Bethlehem? Tất cả đều là sự bí ẩn, vì không ai biết được chính xác ngày sinh của Chúa Jésus. Nhưng năm 1604, nhà toán học Johannes Keeper, đã tính được vị trí của các hành tinh thời Chúa ra đời. Ngoài ra đối với các tín đồ Thiên Chúa Giáo xưa, thì sao Vệ Nữ còn được gọi là Sao Hôm, mọc trước bình minh, được coi như là một biểu tượng của đấng cứu thế. Có lẽ ngôi sao Bethlehem, chẳng qua chỉ là sự hội ngộ của hai ngôí sao sáng nhất trong Thái dương hệ. Ðây là một giả thuyết hợp lý nhất, chứng minh sự hiện hữu của ngôi sao Bethlehem, chỉ có trong huyền thoại.
Nhưng dù có hay không, ngôi sao Bethlehem cũng vẫn là hình ảnh đặc biệt, trong dịp lễ Giáng Sinh. Ðã có nhiều cuộc thi trên thế giới, qua đề tài tìm hiểu về nguồn gốc của ngôi sao trên.Tại Palmerlake ở Tiểu bang Colorado vào năm 1934, đã dựng một ngôi sao Hòa Bình, trên một khu vực rộng tới 500 bộ, trên sườn núi Sandance Deak. Tại thành phố Bethlehem thuộc Tiểu bang Pennsylvania, cũng có dựng một ngôi sao lớn, trên công viên Zinzendorf, từ ngày 4/12 tới 2/1 năm tới, mới bị dẹp.
+ BÀI THÁNH CA BẤT HỦ:
Tiếng Anh gọi các bài hát Giáng Sinh là Carol, tiếng Pháp là Noels, còn Ý là Pastorelles, người Ðức thì gọi Kristlieder.. Nhưng dù có gọi bằng thứ ngôn ngữ gì chăng nửa, thì nguồn gốc vẫn từ các nhà thờ xưa, nơi thường diễn các vở kịch để nhớ về ngày sinh và cuộc đời Chúa Jésus, có kèm theo những bài hát vui tươi. Ngày nay có rất nhiều Thánh Ca nổi tiếng như The First Nowell, God Red Ye Merry, Gentlemant.. và trong số này, bài “ Silent Night, Holy Night “ muôn đời vẫn được thế giới xưng tụng là bài thánh ca bất hủ.
Tại Âu Châu ngày nay, đêm Giáng Sinh ngồi quanh ánh lửa bập bùng chờ lễ. Các cụ thường kể cho con cháu nghe xuất xứ của bài thánh ca nổi tiếng. Trong lúc đó, khắp mọi nơi trên thế giới, từ các miền băng giá tuyết phủ, cho tới những khu rừng nhiệt đới âm u. Từ các đô thành phố thị muôn sắc muôn màu, cho tới hải đảo cô thôn tịch mịch. Ðâu đâu nhân loại qua ngàn vạn ngôn ngữ khác nhau, cũng đều cất cao giọng hát, bài thánh ca bất hủ “ Tille Nacht, Heilige Nacth, Silent Night, Holi Night, Douce Nuit, Sainte Nuit.. hay Ðêm đông lạnh lẽo Chúa ra đời. Lời ca thánh thoát, lôi cuốn kỳ diệu, cuồn cuộn ra muôn vạn ý thơ, không khác gì hoa tuyết đang là bay lã chả, trên những mái nhà củ kỷ, của vùng quê miền Savoice nước Áo, vào mỗi độ Giáng Sinh về.
Năm 1818 tại ngôi làng nhỏ Oberndorf, thuộc Tyrol (Áo). Ở đây, quanh năm tuyết phủ trắng xóa. Tại ngôi nhà thờ nhỏ trong làng, đêm Giáng Sinh năm đó, vì cây đàn duy nhất của nhà thờ bi hư, nên cha Joseph Mohr đã viết bài ca thay thế, bằng sáu câu thơ giản dị. Bài hát được Franz Gruber, một thầy giáo già cùng làng phổ nhạc. Sau đó bài hát được phổ biến quanh vùng, rồi lan khắp nước Áo cùng các xứ lân cận. Tuy nhiên chẳng có ai truy nguyên xuất xứ, vì họ nghĩ rằng, đây chỉ là một bài dân ca xưa.
Mãi tới năm 1830, bài hát tình cờ lọt vào mắt Vua Nước Saxe. Ngài cũng là một nhạc sĩ tài danh thuở đó, nên sau khi nghe được bản nhạc, đã quyết định lập một Ủy Ban Ðặc Biệt, đi khắp nơi để truy tìm xuất xứ. Vì vậy mới tìm được tác giả trong ngôi làng nhỏ nghèo là Oberndorf.
+ MÁNG CỎ VÀ HANG ÐÁ:
Qua bao nhiêu thế kỷ,mỗi năm cứ vào mùa Giáng Sinh, các tín đồ đạo Thiên Chúa đều dựng lại khung cảnh Chúa ra đời., trong máng cỏ. Nhưng tuy cùng một tín ngưỡng, người Nhật dựng máng cỏ qua một đám rước, do các Samourai thực hiện, gần giống như người Esquimo ở miền bắc Canada, tạc tượng Chúa Hài Ðồng bằng băng, rồi đặt nằm trên một chiếc xe trượt tuyết. Riêng Giáo Hội Ðông Phương vì ảnh hưởng nghệ thuật Byzantin, nên đặt Chúa nằm trong một hang đá chứ không trong chuồng bò tại Palestine. Ngoài ra tượng Mẹ Maria thì đặt nằm trên một cái nệm, qua trạng thái mệt mỏi yếu duối của một sản phụ, vừa mới sinh xong.
Theo truyền thuết, Thánh Francois là người đầu tiên, đã sang tạo ra Máng cỏ vào năm 1223 tại làng Greccio, vào đêm Giáng Sinh. Nhưng phải đợi tới thời Vua Charles III của thành Naples, Máng cỏ mới đạt tới thời hoàng kim, suốt thế kỷ XVIII. Vì được triều đình chú trong và nâng đỡ, việc làm Máng cỏ trong mùa giang sinh, không những được phổ biến trong cung nội, dinh thự văn võ bá quan, mà còn bành trướng ra ngoài xã hội, từ giới sang giàu trí thực, xuống tận người nghèo bình dân, trở thành một mốt thời thượng cho hạng lắm của nhiều tiền.
Phong trào dựng Máng cỏ trong đêm Giáng Sinh, từ đó lan tràn khắp các nước Âu Châu, khién cho dân thành Naples phải kéo nhau đi làm công, khắp các thành phố lơn như Aix En, Provence (Ý), Olot (Tây Ban Nha), Oberammergau (Ðức).. Hằng năm, tại khu vực Canabière, trong thành phố Marseille của Pháp, đều có tổ chức “ Hội Chợ Máng cỏ “, từ tháng chạp tới giàng sinh. Hiện nay trong Viện Bảo Tàng Naples và trên Ðảo Sicile (Ý), Munich (Ðức), còn lưu trữ nhiều bộ sưu tập “ Máng cỏ “ được hình thành qua nhiều thời đại tuyệt đẹp. Thang 12/1996 tại phi trường Orly, danh họa Salvador người Tây Ban Nha, đã triển lãm một máng cỏ giống như tai người khổng lồ, trong đó chứa toàn bộ những nhân vật huyền thoại của già đình Chúa Jésus. Tóm lại dù củ hay mới, hình ảnh máng cỏ cũng gợi cho chúng ta, sự trong sáng của tâm hồn giữa cảnh nhiễu nhương và man trá.
Năm 1975 có một nhóm thợ lặn ở làng Laveno thuộc miền Bắc Ý, đã đặt một tượng Chúa dưới đáy hồ Majeux, sâu 23m, trong vùng Lombardie, sát biên giới Ý-Thụy Sĩ. Từ đó mỗi năm tới đêm giang sinh, các thợ lặn lại đem thêm tượng Chúa xuống đặt dưới đáy hồ.Năm 1978 cũng nhóm thợ lặn trên, đã đặt dưới đáy hồ sâu 3m gần bờ, một máng cỏ trong đó có ba tượng Joseph, Maria và Chúa Jésus. Tính tới nay, số tượng Chúa dưới đáy ho Majeux đã có 42 tượng và nhiều máng cỏ. Những tượng này được tạc bằng đá trắng Vicence ở Bắc Ý, nặng trên 15 tấn. Lễ hội hằng năm tại dây vào đêm 24 -12, thu hút hằng trăm ngàn du khách và tín đồ. Trong lúc trên bờ tiếng chuông nhà thờ đổ dồn dập, thì dưới làn nước sâu lạnh lẻo, máng cỏ Noel ân hiện chập chờn, lung linh huyền ảo theo từng cơn gió thoảng.
+ KINH THÁNH VÀ CHỮ THẬP:
Theo từ nguyên của danh từ “Bibble” của Hy Lạp, thì kinh thánh có nghĩa là những cuốn sách nhỏ. Theo truyền thuyết, thì kinh thánh được liên tục viết trong 1600 năm, khởi đầu từ năm 1513 trước TL, cho tới năm 98 sau TL. Hiện nay còn truyền được 66 cuốn, mà quyển đầu tiên là kinh “Sáng Thế Kỷ”. Kinh này thuật lại câu chuyện mất vườn địa đàng, do sự phản nghịch của ông Adam và bà Eva. Còn cuốn cuối cùng là kinh “ Khải Huyền “, trình bày địa cầu sẽ trở lại cảnh địa đàng,qua sự chăm sóc của Chúa. Thật ra câu chuyện vườn địa đàng là ám ảnh và nổi bưc xúc của nhân loại hơn 2000 năm qua, và họ cứ mãi miết đi tìm, từ những ốc đảo, rừng rậm cho tới miền núi đồi băng giá. Cuối cùng khắp các nơi chốn đi qua, con người lại mang thêm niềm nhớ muôn thu, khi cảm nhận được sự lầm lẫn đã đánh mất cõi thiên đàng.
Cho tới thế kỷ thứ 16 sau TL,, vẫn chưa có ai thắc mắc về sự việc liên quan tới vườn Eden trong kinh Sáng Thế Kỷ, trái lại người ta càng ra sức tô bồi thêm thắt câu chuyên cho phong phú diễm tình. Nhà tiên tri Ezechiep đã viết “ trong vườn địa đàng, ở hai bên bờ dòng thac, mọc lên mọi thứ cây ăn quả, không bao giờ héo úa, cạn kiệt, năm tháng đều cóthu hoạch mới..”. Chính những lời tiên tri đó, thúc đẩy con người thực hiện những giấc mộng đi tìm thiên đàng, trong nổi mơ hồ lãng mạng cho tới hôm nay, vẫn còn chưa hề nao núng, dù thực tại vẫn là ảo vọng.
Trong 66 cuốn kinh thánh, 39 cuốn đầu tiên viết bằng tiếng Hebrew, một phần nhỏ khác dùng chữ Aram. Còn 27 cuốn cùng mới dùng chữ Hy Lạp. Năm 280 trước TL, kinh thánh được dịch toàn bộ ra chữ Hy Lạp, gọi là bản Septuagint. Sau cùng lại được dịch ra chữ LaTinh. Ngày nay kinh thánh được dịch ra 1700 thứ tiếng, với số ấn bản hằng tỷ cuốn, lưu hành khắp thế giới. Tóm lại kinh thánh co 31.102 câu, 1189 chương, chia thành 66 tập, chương ngắn nhất là chương thanh thi 117 và chương 119 dài nhất.
Riêng chữ thập được coi như một biểu tượng phong phú nhất của con người. Chính truyền thống Thiên Chúa Giáo đả làm giàu ý nghĩa của chữ thập. Trong các tranh ảnh nói về đạo Ky Tô, chữ thập diễn tả nhục hình cũng như nổi thống khổ của đấng cứu thế. Hiện nay trên thế giới có 4 loại thánh giá và mỗi thứ mang riêng một ý nghĩa. Thánh giá có hình chữ T, tượng trưng cho con rắn bị đóng trên một cây cọc, nói về sự tử vong. Thánh giá có một thanh ngang, hiện được lưu dùng khắp thế giới, đó là thánh giá của phúc âm, tượng trưng cho 4 yếu tố căn bản của con người và sự bành trướng của đạo thiên chúa khắp 4 hướng. Chân thánh giá chôn dưới đất là nền tảng của đạo, nhánh trên là hy vọng hướng về thiên chúa, thanh ngang là tình yêu vươn lên với kẻ thù, còn bề dài nói về sự bền chí. Loại thánh giá có hai thanh ngang, thanh trên có ghi dòng chữ của Ponce Pilate “ Jésus thành Nazareth, vua Do Thái “, còn thanh dưới là chỗ tựa tay của Chúa trước khi chết. Thánh giá này còn được gọi là Anjou hay Lorraine, một biểu tượng của nước Pháp từ năm 1473. Trong thế chiến 2, lực lượng liên minh tự do kháng chiến của De Gaulle cũng dùng quân hiệu với màu đỏ, đối nghịch với quân Pháp đã đầu hàng Hitler, dùng phù hiệu chữ vạn ngược màu đen. Cuối cùng là thánh giá có ba thanh ngang, tượng trưng cho kỷ cương của đạo, tương xứng với ba vòng mủ của Giáo Hòang, Hồng Y và Giám mục. Từ thế kỷ thứ XV về sau, theo luật của Tòa Thánh La Mã, theo đó chỉ có Giáo Hoàng được đeo thánh giá ba thanh ngang, Hồng Y đeo thánh giá hai thanh ngang và Giám Mục trở xuống đeo thánh giá một thanh ngang. Tuy nhiên cũng tùy theo địa phương, với giáo hội La Mã thì thánh giá gồm một một dài một ngắn. Giáo hội Phương Ðông có hai thanh bằng nhau. Ðặc biệt tín đồ thiên chúa giáo vùng Saint André, mang thánh giá hình chữ X.
+ NHỮNG BỨC TRANH VÔ GIÁ VẼ MẸ MARIA VÀ CHÚA JÉSUS:
Ngoài người Ai Cập, La Mã và Trung Hoa, dân tộc Hy Lạp cũng mang tính nghệ sĩ độc đáo qua mọi thời đại và đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật ngay từ thế kỷ thứ 5 trước TL. Nhưnng từ khi Ky Tô giáo từ vùng cận đông du nhập vào Âu Châu, đã làm có nhiều thay đổi quan trọng trong nghệ thuật, suót thời trung cổ, kéo dài từ thế kỷ thứ V ố XV sau TL. Ðây cũng là giai đoạn các nhà nghệ sĩ đã chuyển từ chủ nghĩa Duy Nhiên sang vẽ Bích và Minh Họa các vị Thánh, đạt tới mức hoàn mỹ.
Tuy nhiên vì các đề tài đều do đơn đặt hàng của Tòa Thánh hay nhà thờ, cho nên hầu hết đều mang tính ước lệ, kiểu mẫu từ hình thức cho tới nội dung.
Sau thời trung cổ, nhờ các họa sư người Ý như Giotto, Leonard de Vinci, Raphael Santi.. đã có công lớn trong việc làm sống đọng nghệ thuật Ky Tô giáo, từ thời phục hưng cho tới ngày nay, qua các họa phẩm về Mẹ Maria, Chúa Jésus,bằng cách mượn ngay hình ảnh của người bình thường, để làm mẫu vẽ. Với Leonard de Vinci, ông đã thành công tuyệt mỹ, qua bức tranh “ Ðức Mẹ Thành Benoir “, khi mượn hình ảnh hiền dịu khả ái của một thiếu phụ trẻ, đang mỉm cười nhìn cánh hoa đang hé nở trong tay đứa bé. Toàn bộ bức tranh thật linh hoạt sống đọng, qua hình ảnh người thiếu phụ tượng trưng cho mẹ Maria. Nhưng ý nghĩa nhất vẫn là đôi mắt của Chúa Hài Ðồng, lúc chăm chú nhìn vào cánh hoa, đồng thời đưa một ngón tay khẻ chạm vào nó, như sợ vuôt mắt niềm tin quý báu. Bức tranh này về sau được gọi “ Tranh Ðức Mẹ Với Cành Hoa “, khác biệt với những tranh mẫu trước thời phục hưng. Ngoài ra Vinci còn sáng tạo nhiều tuyệt tác phẩm khác như “ Ðức Mẹ Lita, Ðức Mẹ và Thánh Ana “, tới nay cũng vẫn còn là đỉnh cao của nghệ thuật.
Ðồng thời với Vinci, còn có họa sư Raphael Sant, cũng là người Ý và cũng sáng tạo chung một đề tài về Ðức Mẹ và Chúa Jésus. Tuy nhiên phong thái của hai người hoàn toàn khac biệt, do tính chất nghệ sĩ cá nhân của mỗi người. Trong lúc Vinci sống nơi phố phường đô hội, trái lại Raphael thì sinh và trưởng thành tại Urbino, một miền quê thơ mộng và xinh đẹp của miền Bắc Ý. Vì vậy sau này dù ở tại các thành phố lớn như Florence hay Rome, ông vẫn lấy khung cảnh đồng quê để hoàn thành các tuyệt tác phẩm như Ðức Mẹ Cadatempi, Ðức Mẹ với Hài Nhi, Cậu Bé Jean Baptist và Người Mẹ Elizabeth. Bức họa nào cũng tuyệt đẹp và thơ mộng, qua cảnh vườn cây bãi cỏ xanh mượt, chen lẫn giữa muôn hoa. Nhưng nổi bật hơn hết, vẫn là hình ảnh của tháp chuông nhà thờ cao vòi vọi, đứng im lìm soi bóng trên mặt hồ phẳng lặng. Năm 37 tuổi sắp qua đời, ông lại hoàn thành một tác phẩm vĩ đại lưu danh thiên cổ, đó là “ Ðức Mẹ Ở Sixtine “. Ðây là một nghệ thuật độc đáo, đã dung hòa được tinh thần nhân văn, thời phục hưng và truyền thống cổ.
3- Ðêm Thánh Vô Cùng:
Theo sử liệu, cách đây hơn 2000 năm, vào một đêm đông lạnh lẽo, Chúa Jésus đã được sinh trong một máng cỏ, nơi cánh đồng cô quạnh. Nguyên do là bà Maria tuy sắp tới ngày sinh đẻ nhưng vì có lệnh kiểm tra dân số của chính quyền La Mã nên phải rời thành phố đang ở là Nazareth về lại quê hương tận Bethlehem, vì vậy đã sinh Chúa giữa đồng. Tuy nhiên tới năm 350 sau TâY Lịch, nhân loại mới thống nhất được 25-12 là ngày lễ Giáng Sinh chung, tuy rằng mỗi nước mỗi địa phương đều có những tục lệ khác biệt, theo tập quán phong tục riêng của họ.
Từ thời trung cổ về sau, nhất là tại Âu Châu, lễ Giáng Sinh được tổ chức rất long trọng và vĩ dại. Trong mùa lễ, khắp nơi đều có lập những sân khấu lộ thiên, để các đoàn văn nghệ của giáo hội, trình diễn các tiết mục của thánh kinh. Nhờ vậy,nghệ thuật diễn tuồng, kịch của Âu Châu được phát huy và quảng bá rộng rải. Tinh thần Noel trên kéo dài tới cuối thế kỷ XVIII mới bị bãi bỏ. Dù vậy tới nay vẫn còn nhiều phong tục xa xưa được chấp nhận như niềm tin rằng, trong đêm Giáng Sinh, ma quỷ và các phù thuỷ không thể nào hãm hại được ai, ví đó là đêm bình an, hoan lạc của thế nhân. Ngoài ra nếu đêm Giáng Sinh trúng vào mùa trăng non, thì năm tới dân chúng làm ăn phát đạt trúng mùa. Ngày Giáng Sinh gặp nắng ráo thì cả năm tới mưa thuận gío hòa. Trong đêm Giáng Sinh, nam nữ rủ nhau đi hái lộc non của các cây nguyệt quế, trường xuân, đào kim chướng, chùm gởi.. qua niềm tin lộc sẽ mang tới hạnh phúc cho họ.
Trong lúc đó thì mọi nhà, kể cả kẻ ngoại đạo, đều có tiệc tùng rất vui vẽ. Từ sau đệ nhị thế chiến, bánh Buche de Noel, đã trở thành một thực đơn quen thuộc, không thể thiếu trong bữa tiệc của đêm Giáng Sinh. Riêng lý do bánh có hình khúc củi, cũng từ tập tục có từ thời trung cổ truyền lại, để con cháu nhớ lại thuở xưa khắp Âu Châu, mọi người đều phải dùng củi để đốt lò sưởi, trong dịp sinh nhật Chúa. Ðây cũng là thời kỳ lạnh nhất trong năm, nên mọi ngưòi vừa đốt củi để sưởi, vừa ngồi quanh lửa hồng để cầu xin ơn trên ban phước lành. Ngoài ra còn phải kể tới món Gà lôi hay Gà tây, được mang từ Tân Thế Giới về Tây Ban Nha, từ thế kỷ thứ XVI, và theo thời gian đã trở thành món ăn quen thuôc hằng ngày nhưng cũng là đặc sản trong đêm sinh nhật Chúa.
Tuy cũng thuộc Âu Châu nhưng nước Nga với lãnh thổ rộng nhất hoàn cầu chạy dài từ Âu sang Á, nên khí hậu có tính cách đại lục. Mùa đông ở đây cũng khác biệt với những lớp tuyết trắng phủ đầy từ mặt đất lên cả mái nhà, còn mặt trời thì giống như ngái ngủ làm cho cả cảnh vật khắp nơi buồn hiu quạnh quẻ. Trước đây người Nga theo Chính thống giáo và lịch riêng của mình, nên hằng năm đón Giáng Sinh vào ngày 6-7/1. Hiện Liên Bang Nga đã xài lịch Gregorian, nên đón Giáng Sinh cũng như các nước khác.. Theo truyền thống, người Nga có tục kiêng cữ ăn uống trước đêm Giáng Sinh, trong đó có rượu Vodka và đường bị cấm tuyệt. Thời gian này, mọi người chỉ ăn bánh Sochniki làm bằng đậu, được chiên bằng dầu thảo mộc và uống nước lạnh. Rồi vào lúc 7 giờ tối đêm Giáng Sin, khi mà khắp nước Ng, mọi người nhìn thấy một ngôi sao nhỏ xuất hiện trên bầu trời xám đục, lập tức mọi người cầu nguyện. Sau đó quay quần bên bữa tiệc Giáng Sinh, sau kỳ ăn kiêng mà người Nga coi như một biểu tượng của 40 năm Moses đã dẫn dân Do Thái đi trong sa mạc mịt mù. Thời kỳ này, người Nga nào cũng đều làm việc từ thiện. Tại Gia Nã Đại thời tiết cũng lạnh lẽo như bên Nga nhưng tuyết có rơi cũng chỉ là lất phất vừa đủ rắc một vài lớp đá mỏng lên trên vạn vật, rồi dần tan ngay khi có ánh nắng mặt trời. Bởi vậy khách du phương khi tới đây gặp mùa Giáng Sinh, bổng thấy mình vô tình lạc vào cõi thần tiên, giữa rừng cây hằng xanh, của các pho truyện cổ tích, mà các nghệ sĩ Âu Mỹ thường ca tụng là Pine, holly, mitlatoe.
Tại đây đâu đâu cũng tràn ngập hàng hóa dành cho ngày Giáng Sinh, tất cả đều rạng rỡ dưới màu sắc của mọi màu. Ðêm Giáng Sinh tại đây thật an bình, mọi người sau khi dự lễ nhà thờ về, đều quay quần bên bàn tiệc với gia đình, bè bạn, trong ánh lửa bập bùng của lò sưởi và các đèn màu mờ ảo từ các cánh thông nơi góc nhà. Ai cũng vui vẻ hạnh phúc, nâng ly chúc tụng lẫn nhau, mặc cho ngoài trời giá lạnh căm căm và tuyết rơi như mưa bụi, nhưng vẫn có những kẻ không nhà hay lỡ bước lang thang.
Thánh địa của Thiên Chúa giáo là vương quốc Vatican, tuy lãnh thổ nằm trong kinh đô Rome của Ý Ðại Lợi nhưng từ năm 1929, đã đã được Musolini ký lênh công nhận là một quốc gia độc lập, bất khả xâm phạm. Tại đây, từ đầu thế kỷ thứ IV sau TL, tòa thánh La Mã đã xây Ðại giáo dường ST.Peter giữa kinh thành Rome và quảng trường Thánh Phêrô, có sức chứa hằng trăm ngàn người.Tất cả đều uy nghi tráng lệ và vĩ đại, không nơi nào có thể sánh kịp, từ trước tới nay. Trong đêm Giáng Sinh, người Ý cũng như các tín đồ hành hương ngoại quốc, đều tụ tập về đây. Lễ hội kéo dài suốt đêm, mọi người vừa hành lễ, vừa vui mừng chúc tụng, ăn uống, nhảy múa ca hát. Ðồng thời với nhiều chương trình ca nhạc được diễn ra khắp nơi tại Via, đồi Aventine, nhà nguyện Sixtine, quảng trường Campitelli.. với các ban nhạc trứ danh bất hủ của Villa Lobos, Beethoven, Brahms, Ravel, Janacer và Stravinsky.
Tại Hoa Kỳ, những người di dân Anh đầu tiên đã mang lễ hôi Giáng Sinh vào đây và được tổ chức lần đầu vào năm 1686 tại Boston nhưng tới năm 1856 mới được quốc hội công nhận là quốc lễ. Tuy nhiên tất cả các kỷ lục liên quan tới lễ Giáng Sinh đều ở tại Mỹ, cũng như là nước đứng đầu sử dụng cành thông trong mùa lễ. Nữu Ước chẳng những là trung tâm kinh tế số 1 của Mỹ, mà còn là kho hàng bách hóa khổng lồ, đường phố cửa tiệm buôn bán suót ngày đêm, với sản phẩm mới, hàng thời trang và đồ chơi trẻ con tràn ngập thị trường. Trong lúc đó các chương trình hòa tấu, văn nghệ dành cho mùa Noel được trình diễn liên tục, khắp các trung tâm buôn bán Rockefeller, Radio Music Hall, Carnegie Hall.. Ở đây đêm Giáng Sinh cũng như giao thừa, mọi người tụ tập tại các nơi công cộng như đại lộ Madison, đường số 5, các đại vũ trường trong khách sạn Plaza, Rockerfeller, Waldorf, Astoria, Time Square.. dễ ăn uống, nhậu nhẹt, khiêu vũ ca hát suốt đêm.
Ở Anh hầu hết các chuyến tàu điện, tàu điện ngầm, các loại xe chuyên chở công cộng đều luôn đầy nghẹt người suốt ngày đêm 24/12, vì ai cũng hối hả về đoàn tụ với gia đình trong đêm Giáng Sinh, một lễ hội quan trọng nhất trong năm, hơn cả ngày tết Dương Lịch. Theo tập quán lâu đời tại Anh, thì ngày chủ nhật trước lễ Giáng Sinh, mọi người tụ tập tại các nhà thờ để hát thánh ca. Trong lúc đó có nhiều người đi hát dạo trên đường phố cũng như ở nhà quê, để quyên tuyền giúp cho các cơ quan từ thiện. Trong nhà, ngoài phố nơi nào cũng trang hoàng cây Giáng Sinh với những gói quà tặng. Ở Á Châu, Nhật là quốc gia tuy 90 % theo Phật giáo nhưng lại hưởng ứng nồng nhiệt lễ Giáng Sinh. Với các gia đình theo đạo Thiên Chúa, bữa tiệc nửa đêm được tổ chúc rất long trọng, ngoài món gà tây nhồi thịt còn có sò và ngổng uống với rượu Ské hâm nóng; gợi lại những hình ảnh cũ mới của mùa Giáng Sinh, đang nở rộ khắp vạn nẻo đường thế giới, bổng xót xa nghĩ nhớ những mùa Giáng Sinh năm xưa ở quê nhà, trước ngày 30-4-1975. Buổi đó, mọi người vì tin đạo, yêu đời và tâm hồn vị tha phóng khoáng theo truyền thống muôn đời của dân tộc, nên ai củng cố quên sự chết chóc đang rình rập để đón mừng đêm Chúa ra đời. Phó mặc cho pháo kích, lựu đạn của VC lúc nào cũng lợi dụng hưu chiến, gây nổi tang tóc đau khổ cho mọi người.
Rồi những ngày mở cửa rước tư bản vào cứu đảng. Cứ mỗi lần Giáng Sinh tới, Viêt, Cộng lại đóng kịch tự do tôn giáo, vừa che mắt Thánh, lại có dịp tổ chức ăn chơi thu tiên đô của “Việt kiều” và du khách. Nhưng dân chúng cả nước thì mặc kệ thiệt hay giả, đêm Giáng Sinh năm nào cũng đón mừng vui vẻ, theo tiêu chuẩn là vui được phút nào thì cứ vui, chứ sống trong thiên đường xã nghĩa, biết đâu mà mò chuyện ngày mai sắp tới.
Xứ người mấy chục năm qua, đêm Giáng Sinh nào cũng nghe lại được những bài hát Ðêm Ðông, Ðêm Thánh Vô Cùng, Mừng Chúa Giáng Sinh.. khiến cho hồn thêm bâng khuâng cô quạnh, rồi tự hỏi :
“những người năm xưa ấy
giờ lưu lạc phương nào..?”
Ðêm nay Giáng Sinh lại về, ta kẻ ngoại đạo một mình lang thang trên phố vắng người. Trên lầu cao, nhà ai tràn ngập ánh đèn màu và chập chùng tiếng nhạc Giáng Sinh thánh thoát, quyện theo gió xa đưa mùi hương huệ trắng thơm ngát ngào ngạt. Ôi Đêm Thánh Vô Cùng khắp trần gian, ta đón mừng với giọt nước mắt ly hương, lầm lũi trong đêm lạnh:
“Ta đã khóc dù hồn đâu có muốn
nhìn dòng đời hờ hững nhớ quê hương...!”
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Mùa Giáng Sinh
Mường Giang