Việt Nam phải lo lắng nhiều hơn Đài Loan về xung đột ở Ukraina
Phan Minh
Trong bối cảnh cuộc chiến giữa Nga và Ukraina đã kéo dài được một tháng, Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng cấp cao của RAND Corporation và cựu cố vấn tình báo tại Ngũ Giác Đài có bài phân tích về ý đồ của Trung Cộng đối với Việt Nam và Đài Loan.
Cuộc chiến của Nga ở Ukraina đã khiến các nhà quan sát an ninh Ấn Độ - Thái Bình Dương phải so sánh hoàn cảnh của Ukraina với Đài Loan vốn nằm trong tầm ngắm của Trung Cộng.
Nói một cách cụ thể hơn, Ukraina và Đài Loan đều là các quốc gia dân chủ có xung đột với một cường quốc láng giềng theo chủ nghĩa xét lại và độc tài. Lập luận của ông Vladimir Putin về Ukraina không phải là một quốc gia có chủ quyền dường như lặp lại lời của ông Tập Cận Bình và tất cả các nhà lãnh đạo Trung Cộng trước ông : Đài Loan chỉ là một tỉnh nổi loạn và sớm muộn cũng sẽ "thống nhất" với Trung Hoa đại lục, thông qua các biện pháp hòa bình hoặc bằng vũ lực nếu cần thiết.
Tuy nhiên, sau những điểm tương đồng đáng chú ý đã được nêu, sự so sánh giữa Ukraina và Đài Loan dường như sẽ bị khập khiễng, và một quốc gia Ấn Độ - Thái Bình Dương khác có thể sẽ phải lo lắng hơn Đài Loan vào lúc này, đó là Việt Nam.
Cũng là một nước xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng Sản độc tài cai trị, Hà Nội đang chịu áp lực ngày càng lớn từ Trung Cộng, đặc biệt là xung quanh các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Trung Cộng không đe dọa xâm lược Việt Nam như Nga đã làm với Ukraina, nhưng thỉnh thoảng hai nước châu Á này có những đụng độ chết người trên biển. Không thể loại trừ khả năng những sự cố trên biển này có thể tràn vào đất liền, phá vỡ bối cảnh hòa bình kéo dài hàng thập kỷ giữa hai nước. Một kịch bản như vậy có nhiều khả năng xảy ra hơn là một cuộc xâm lược Đài Loan trong thời gian tới.
Việt Nam không có liên minh về an ninh với bất kỳ cường quốc hoặc mạng lưới quân sự nào, đó chính là điều đã khiến Ukraina dễ bị tấn công. Chính sách đối ngoại không liên kết của Hà Nội kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đồng nghĩa với việc Trung Cộng có thể tấn công mà không sợ bị các quốc gia mạnh hơn trả đũa. Mặc dù quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam đã phát triển mạnh trong những năm gần đây, quan hệ đối tác "toàn diện" của Washington với Hà Nội là cấp độ quan hệ đối tác thấp nhất của Việt Nam.
Sự sụp đổ của Liên Xô khiến Việt Nam cảm thấy bị các liên minh hắt hủi đến mức Hà Nội thậm chí không có liên minh về an ninh với người bạn lâu năm là Nga. Điều này thực sự đặt Việt Nam vào thế phải tự lo cho bản thân ở khu vực Biển Đông. Để so sánh, Philippines cũng có những bất đồng trong khu vực với Trung Cộng nhưng Manila có thể dựa vào quan hệ đồng minh của mình với Washington.
Có thể nói rằng Đài Loan cũng không có liên minh quân sự với Hoa Kỳ hoặc bất kỳ cường quốc nào khác. Tuy nhiên, mọi chính quyền kể từ khi Hoa Kỳ cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Bắc vào năm 1979 để thiết lập quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh, đều hỗ trợ cung cấp những vũ khí cần thiết cho Đài Loan để phòng thủ, chiếu theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan. Hơn nữa, vào tháng 10 năm ngoái, tổng thống Joe Biden đã hai lần khẳng định rằng Mỹ đã chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ Đài Loan nếu Trung Cộng tiến hành một cuộc tấn công quân sự nhắm vào hòn đảo này. Việt Nam thì không thể mong chờ vào điều này.
Việt Nam, giống như Ukraina, trước đây cũng đã bị tấn công bởi nước láng giềng khổng lồ. Nga chiếm Crimée vào năm 2014 và xâm nhập vào khu vực biên giới Donetsk và Luhansk của Ukraina. Tương tự, Trung Cộng đã chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa từ miền Nam Việt Nam vào năm 1974 và từ chối trao trả sau khi Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Vào năm 1979, quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng đã "dạy cho Việt Nam một bài học" vì nước này can thiệp vào Cam Bốt chống lại Khmer Đỏ do Trung Cộng hậu thuẫn.
Mạng xã hội Việt Nam đã xôn xao về những điểm tương đồng này kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng Nga - Ukraina. Theo một bài bình luận gần đây, điều duy nhất đã cứu Việt Nam trước đây khỏi một cuộc xâm lược hoàn toàn là nhờ liên minh với Liên Xô, quốc gia có vũ khí hạt nhân. Nhưng liên minh này không tồn tại nữa.
Bắc Kinh vẫn tiếp tục thực hiện các chiến dịch quân sự chống lại Việt Nam. Ví dụ, vào năm 1988, Trung Cộng đã đánh đuổi lực lượng Việt Nam khỏi Đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Trong một thập kỷ gần đây, Trung Cộng đã xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa và triển khai lực lượng đến quần đảo Hoàng Sa.
Trung Cộng, ngày nay sở hữu lực lượng hải quân lớn nhất thế giới, lực lượng tuần duyên và lực lượng dân quân biển lớn nhất khu vực, hiện thường xuyên tuần tra các khu vực tranh chấp và xua đuổi tàu bè của các đối thủ ra khỏi vùng biển này. Vào đầu tháng 3, quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng đã tiến hành một chiến dịch trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dường như để trục vớt một chiếc máy bay chiến đấu bị rơi mà không được sự cho phép của Hà Nội.
Trong khi đó, tại biên giới trên bộ, việc thành lập ít nhất một, thậm chí có thể hai căn cứ của quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng gần đó đã được công khai vào năm ngoái - một căn cứ tên lửa và một căn cứ máy bay trực thăng. Luật về biên giới trên đất liền mới của Bắc Kinh, cũng được thông qua vào năm 2021, khuyến khích việc bảo vệ tích cực các biên giới của Trung Cộng bằng vũ lực, ám chỉ rằng các đơn vị quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng hoạt động ngoài các căn cứ này có thể được quyền gây thêm áp lực đối với Việt Nam.
Đài Loan cũng phải đối mặt với các mối đe dọa ngày càng tăng, đặc biệt là các máy bay chiến đấu của Trung Cộng bay gần hoặc xâm nhập vào vùng nhận dạng phòng không của hòn đảo. Tuy nhiên, Trung Cộng chưa bao giờ thực hiện bất kỳ hành động quân sự trực tiếp nào chống lại hòn đảo kể từ khi chính phủ Quốc Dân đảng chạy trốn khỏi Trung Hoa lục địa khi kết thúc cuộc nội chiến năm 1949. Điều này không có nghĩa là quan hệ xuyên biển không xảy ra bất kỳ sự cố gì.
Trong các năm 1954-55 và 1958, quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng đã nã pháo vào các tiền đồn quân sự của Đài Loan ở quần đảo Kim Môn và Mã Tổ gần bờ biển của Trung Cộng. Ngoài ra, vào các năm 1995 và 1996, Bắc Kinh đã phóng tên lửa gần Đài Loan để phản đối chuyến thăm Hoa Kỳ của cựu tổng thống Lý Đăng Huy. Tuy nhiên, nhìn chung, Bắc Kinh đã hạn chế thực hiện các hành động quân sự chống lại hòn đảo. Việt Nam thì khác.
Trung Cộng có thể sẽ dễ dàng đánh bại Việt Nam trong một cuộc xung đột vũ trang thông thường, mặc dù không nhất thiết phải là một cuộc xung đột du kích kéo dài, không giống như đánh giá ban đầu của Nga về sự kém cỏi của quân đội Ukraina. Trung Cộng có lợi thế quân sự lớn so với Việt Nam, từ tên lửa đạn đạo và hành trình, máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, tàu ngầm, hạm đội tàu mặt nước và các lĩnh vực khác.
Sau khi công bố tăng 7,1% ngân sách để phát triển quân sự vào đầu tháng, ngân sách quốc phòng của Bắc Kinh đã lên khoảng 230 tỷ đô la, gấp ít nhất 32 lần ngân sách ước tính 7 tỷ đô la của Hà Nội. Hơn nữa, Trung Cộng đã đầu tư vào việc chuyên nghiệp hóa quân đội, đặc biệt là để tăng cường sự liên kết giữa các lực lượng, với mục đích biến quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Cộng, dưới sự chỉ đạo của chủ tịch Tập, thành lực lượng "đẳng cấp thế giới". Quân đội Việt Nam thua xa Trung Cộng về mọi mặt.
Ngược lại, Đài Loan đã đầu tư rất nhiều vào việc mua sắm hoặc phát triển khả năng phòng thủ nhằm làm phức tạp thêm các nỗ lực của Bắc Kinh trong việc xâm lược hòn đảo. Đài Loan sở hữu các hỏa tiễn đất đối không, như các khẩu đội tên lửa Patriot của Mỹ và tên lửa hành trình chống hạm.
Đài Loan cũng được lợi từ sự hỗ trợ kéo dài hàng thập kỷ trong việc mua sắm các hệ thống vũ khí tiên tiến của Mỹ, bao gồm việc mua 66 máy bay chiến đấu F-16V vào năm ngoái để tăng cường khả năng không chiến và tuần tra. Đài Loan đã phát triển lực lượng vũ trang của mình và hoàn thiện khả năng tiến hành chiến tranh trong các lĩnh vực không quân và hải quân, trong khi Việt Nam thì không.
Về mặt địa lý, việc Trung Cộng xâm lăng Đài Loan có lẽ sẽ phức tạp hơn nhiều so với việc Nga xâm lăng Ukraina trên đất liền. Nga tập trung quân dọc theo biên giới và xâm chiếm phần lãnh thổ hầu hết là bằng phẳng và cận kề biên giới. Về phần mình, Trung Cộng sẽ phải tiến hành thành công chiến dịch đổ bộ vào Đài Loan và có thể sẽ bị thiệt hại khi đi qua eo biển để tới hòn đảo. Đường biên giới chung trên đất liền của Việt Nam với Trung Cộng, tương tự như Nga với Ukraina, không có bất kỳ thách thức khó khăn đặc biệt nào về mặt địa hình.
Không có sự so sánh nào là hoàn hảo, nhưng sự so sánh Nga - Ukraina với Trung Cộng - Đài Loan có nhiều điểm không tương đồng. Kịch bản xung đột nổ ra giữa Trung Cộng và Việt Nam dường như sẽ dễ xảy ra hơn trong trường hợp tình hình ở Biển Đông leo thang trở thành một cuộc xung đột lớn hơn trên đất liền.
Kết luận này có thể khiến Mỹ vừa an tâm và vừa lo lắng. Một mặt, Washington có thể sẽ yên tâm khi biết rằng Đài Loan không dễ bị tấn công như Ukraina. Mặt khác, Hoa Kỳ có thể sẽ có cái nhìn lo âu đối với Việt Nam.