Các trận đánh biên giới Nam Việt Nam

Michael A. Eggleston

… Trận tấn công Dak To là trận đánh lớn thứ ba trong mùa thu năm 1967 được gọi là “Các Trận Đánh Biên Giới” … Dak To có lẽ là trận tấn công lớn nhât, mở đầu cho “một cố gắng tấn công tập trung” trong khắp miền Nam Việt Nam.

Đại Tướng William C. Westmoreland

I. DAK TO

Năm 1967 xẩy ra những trận đánh lớn nơi đường biên giới Nam Việt Nam với Lào, Miên và Bắc Việt dưới khu vực phi quân sự. Đó là một cố gắng của Hà Nội nhằm thu hút các đơn vị Hoa Kỳ dưới vùng đồng bằng, đông dân cư ra những khu vực biên giới. Họ sửa soạn cho trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân trong tháng Giêng năm 1968, các thành phố trong miền Nam sẽ là mục tiêu cho trận tấn công. Quân Đồng Minh có thể nhận thấy địch quân đã thay đổi chiến thuật du kích sang trận điạ chiến. Đa số những trận đánh lớn xẩy ra trên vùng cao nguyên Quân Đoàn II VNCH. Trận Dak To bắt đầu một năm trước trận Tết Mậu Thân 1968, và sẽ lên đến cao độ trong mùa thu năm 1967, sau hai trận đánh biên giới trước đó. Khoảng hơn một chục trận tấn công trên vùng cao nguyên, tuy nhiên trận đánh tốn xương máu nhiều nhất cho cả đôi bên xẩy ra trên hai ngọn đồi 1338 và 875.

Thị trấn Dak To nằm trên vùng cao nguyên cách biên giới Lào, Miên (tam biên) 30 dặm, “Nó nằm dưới chân thung lung, với những ngọn đồi bao quanh, che phủ với cỏ tranh cao (cỏ voi), cây cối rậm rạp, cao 100 bộ (30 m) trên mặt đất. Những đỉnh núi, rặng núi chạy dài ra từ sườn núi có độ dốc cao lên đến hơn 4000 bộ (1300 m).” Điạ thế khu vực tương tự như Điện Biên Phủ  năm 1954, nhưng hơi khác, trong khu vực Dak To có trại Lực Lượng Đặc Biệt (DSCĐ) do toán A-244 LLĐB/HK trấn đóng. Dak To còn được đơn vị MACV-SOG Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (NKT/VNCH – Lôi Hổ) xử dụng làm căn cứ “phóng” ra các toán biệt kích SOG (Lôi Hổ) vào đất Lào và Miên, theo dõi, phá hoại hệ thống đường mòn HCM, đưa quân đội, vũ khí, chiến cụ vào tiếp tế cho Việt Cộng trong miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1966, khu vực tam biên có những trận đánh lớn, trận lớn nhất xẩy ra năm 1967.

Sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng W. R. Peers (ông này sau lên Trung Tướng được trao trách nhiệm điều tra vụ Mỹ Lai Ủy Ban Peers), tung ra hành quân Sam Houston trên vùng cao nguyên từ ngày 1 tháng Giêng năm 1967. Mục đích cuộc hành quân ngày ngăn chặn đường chuyển quân, đồ tiếp vận vào miền Nam qua hai nước láng giềng Lào và Cambodia. Để chuẩn bị, đến giữa tháng hai cuộc hành quân Sam Houston mới bắt đầu và phần lớn các cuộc chạm súng xẩy ra nơi biên giới trong hai tỉnh Pleiku và Kontum, khu vực Dak To. Chiến thuật của quân đội Bắc Việt, bao vây tiêu diệt các đơn vị nhỏ Hoa Kỳ. Tướng Peers ra lệnh, các đại đội phải nằm trong vòng yểm trợ hỗ tương của các đại đội khác. Hành quân Sam Houston kết qủa nhiều cuộc chạm súng với quân chính quy Bắc Việt trong khu vực biên giới. Sư đoàn 4 BB Hoa Kỳ báo cáo giết 733 quân chính quy Bắc Việt, đổi lấy 155 quân nhân Hoa Kỳ khi cuộc hành quân chấm dứt vào ngày 5 tháng Tư năm 1967.

Khi cuộc hành quân Sam Houston kết thúc, sư đoàn 4 BB mở cuộc hành quân mới Francis Marion bắt đầu từ ngày 6 tháng Tư năm 1967. Tiếp theo hành quân Sam Houston, tiếp tục nhiệm vụ lùng và diệt địch trong khu vực biên giới. Trong khi đó quân đội Bắc Việt cũng tìm cách thu hút quân đội Hoa Kỳ ra khỏi khu vực đông dân cư, đến khu vực biên giới. Trong các cuộc chạm súng với sư đoàn 4 BB Hoa Kỳ, quân đội Bắc Việt có trong khu vực 6 trung đoàn, sẵn sang chiến đấu và đã bổ sung con số tổn thất trong hành quân Sam Houston mới xẩy ra trước đó.

Các tiểu đoàn thuộc trung đoàn 8, 12, cùng các chiến xa (M-48) thiết đoàn 10 Kỵ Binh cơ hữu sư đoàn 4 BB tham dự cuộc hành quân. Hầu hết các hoạt động xẩy ra xung quanh trại Lực Lượng Đặc Biệt (CIDG) Đức Cơ trong tỉnh Pleiku, gần biên giới Miên. Các cuộc chạm súng bắt đầu từ cuối tháng Tư, trung đoàn 8 BB có chiến xa yểm trợ tấn công một tiểu đoàn lính Bắc Việt đã di chuyển vào gần khu vực Đức Cơ, đào công sự, hầm hố chiến đấu. Trong hai ngày giao tranh, tiểu đoàn Bắc Việt bị tiêu diệt, loại khỏi vng chiến 133 người. Trận đánh tiếp tục trong khu vực biên giới mấy tuần lễ, qua mùa mưa từ (tháng Năm đến tháng Mười), gây trở ngại cho vấn đề chuyển quân, không trợ cho quân đội Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian này, căn cứ của sư đoàn 4 BB được xây dựng (căn cứ Enary) và hoàn tất nơi phiá nam thành phố Pleiku. Điều này dường như quân đội Hoa Kỳ đã vào bẫy, di chuyển các đơn vị tác chiến khỏi khu vực đông dân cư ra vùng biên giới.

Các đơn vị chính quy Bắc Việt băng qua biên giới, xâm nhập vào khu vực Dak To gia tăng, quân đội Hoa Kỳ phản ứng mở cuộc hành quân Greeley trong tháng Sáu năm 1967, sư đoàn 4 BB của Tướng Peers được tăng cường lữ đoàn 173 Nhẩy Dù dưới quyền chỉ huy của Tướng John R. Deane. Hành quân Greeley kéo dài mấy tháng trong khu vực Dak To, hành quân Francis Marion về phiá nam chấm dứt ngày 12 tháng Mười năm 1967. Khi mức độ trận đánh tại Dak To lên cực điểm, hai hành quân Francis Marion và Greeley kết hợp trở thành hành quân MacArthur.

Lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ tham dự trận Dak To với ba tiểu đoàn 1, 2, và 4 đặt dưới sự chỉ huy của sư đoàn 4 BB. Mỗi tiểu đoàn có 750 quân, chia ra bốn đại đội 150 quân. Mỗi đại đội có 3 hoặc 4 trung đội, một trung đội súng nặng và ban tham mưu đại đội.

Trong tháng Năm, mùa mưa bắt đầu trên vùng cao nguyên, và kéo dài cho đến hết tháng Mười. Khu vực Dak To rừng rập cây cao, to, khó tìm được bãi đáp cho trực thăng đổ quân vào chiến trường. Cây rừng gây khó khăn cho pháo binh, phi cơ yểm trợ hữu hiệu, và quân đội Bắc Việt được huấn luyện “bám sát” để tránh hỏa lực phi pháo khủng khiếp của Hoa Kỳ.

Khi tháng Tư năm 1967 trôi qua, nhiều vụ chạm súng lớn với quân chinh quy Bắc Việt gia tăng. Sư đoàn 4 BB Hoa Kỳ đóng trong căn cứ Enari gần Pleiku, Sư đoàn 1 Không Kỵ (Kỵ binh không vận) đóng trong căn cứ An Khê trên quốc lộ 19, hướng đông Pleiku. Lữ đoàn 173 Nhẩy Dù săn đuổi quân du kích Việt Cộng gần căn cứ đóng quân nơi phi trường Biên Hòa. Họ không biết, sẽ gặp phải chuyện gì khi đuổi theo một toán du kch Việt Cộng. Lữ đoàn Nhẩy Dù Hoa Kỳ chưa từng đụng phải quân chính quy Bắc Việt, và cha biết sẽ lên tăng cường trên vùng cao nguyên. Đại Tá James B. Adamson, lử đoàn 2, sư đoàn 4 BB cố gắng cảnh báo cho vị tư lệnh lữ đoàn 173 Nhẩy Dù, Chuẩn Tướng Deane cùng ban tham mưu của ông ta, chiến đáu trên vùng cao nguyên khác dưới vùng đồng bằng (quân chính quy Bắc Việt) “Các ông phải biết rằng, trên vùng cao nguyên, sẽ đánh nhau với quân chính quy Bắc Việt, không phải Việt Cộng” Lữ đoàn Nhẩy Dù vẫn tự tin và họ sẽ phải trả bằng máu.

Trong tháng Năm, tin tình báo cho biết quân đội Bắc Việt đang thảo kế hoạch tấn công lớn dọc theo biên giới Lào-Việt. Ngày 24 tháng Năm, hai tiểu đoàn thuộc lữ đoànử Nhẩy Dù được lệnh chuẩn bị di chuyển lên Catecka (đồn điền trà) gần thành phố Pleiku. Lữ đoàn 173 sẽ nằm dưới sự chỉ huy của sư đoàn 4 BB. Trong khi chuẩn bị, chờ đợi được không vận lên vùng cao nguyên hành quân, quân Nhây Dù Hoa Kỳ cũng không lo lắng nhiều (vô tư)

 II. ĐỒI 1338 - CHIẾN ĐẤU TRÊN NHỮNG SƯỜN ĐỒI 15-23 THÁNG SÁU 1967

Trận đánh đãm máu nhất (tại thời điểm đó) bắt đầu từ ngày 14 tháng Sáu, khi trung đoàn 24 chính quy Bắc Việt tiêu diệt toán tuần tiễu LLĐB do hai cố vấn Mũ Xanh Hoa Kỳ chỉ huy gần Dak To. Ngày 17 tháng Sáu, hai tiểu đoàn 1/503, 2/503 thuộc lữ đoàn 173 được lệnh di chuyển từ đồn điền trà Catecka lên Dak To. Họ thu hồi được xác hai quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ, cùng chín xác quân biệt kích, Dân Sự Chiến Dấu người Thượng.

Ngày 20 tháng Sáu, tiểu đoàn 2/503 (lữ đoàn 173) bắt đầu tiến lên đồi 1338. Đại đội Alpha (A) của Đại Úy David H. Milton đi đầu. Ông ta được lệnh chặt cây, khai quang làm bãi đáp trực thăng tái tiếp tế, thả lựu đạn cay (CS Crystals) xung quanh bãi đáp, ngăn ngừa địch quân bao vây xung quanh. Đó là một quyết định xấu (không hay) của cấp chỉ huy (ra lệnh cho đại đội A). Theo lời kể lại của một quân nhân sống sót.

Buổi sáng ngày 22 tháng Sáu, tiểu đội tôi nhận lệnh chi tiết “thả hơi cay”, vào buổi sang sớm trên một khu vực rộng lớn với “CS Crystals”. Nếu “Charlie” (cộng sản) có dấu hiệu tấn công từ phiá sau, đó là điều ngạc nhiên như ong đốt. Không ai trong chúng tôi biết phải đeo mặt nạ phòng hơi cay trước… Sợ địch xuất hiện bất ngờ, chúng tôi vội vã ném các qủa lựu đạn hơi cay, kết qủa người nào cũng bị cay mắt, bỏng rát cả mặt và những nơi da mềm như nơi cổ, trong nách…

Đại đội Charlie (ĐĐ C) dưới quyền Đại Úy Ronald R. Leonard, di chuyển ngang qua đại đội Alpha (A) hư§ng lên đỉnh đồi 1338. Khoảng 1700 giờ (5 giờ chiều), Milton (ĐĐ A) được lệnh quay trở về Dak To ngày hôm sau bảo vệ bộ chi huy tiểu đoàn thay cho đại đội Bravo (ĐĐ B). Khi màn đêm phủ xuống, tiểu đoàn 2/503 có hai đại đội (A và C) trên đồi 1338, đại đội Charlie đã lên cao hơn, cách xa đại đội Alpha 1500m. Cả hai đại đội đào hầm hố lập tuyến phòng thủ đêm. Sáng hôm sau, đại đội Charlie tiếp tục tiến lên trên đỉnh đồi 1338, trong khi đại đội Alpha chuẩn bị rút về Dak To thay cho đại đội Bravo. Đến thời điểm đó vẫn chưa một tiếng súng nổ, nhưng trung đoàn 24 chính quy Bắc Việt đã có nhiều thời gian chuẩn bị cho trận tấn công (chào đón tiểu đoàn 2/503). Đại đội Charlie (vị trí xa nhất trên đồi 1338) được một trung đội DSCĐ (biệt kích Mỹ) làm nhiệm vụ hướng dẫn (đi đầu, hướng đạo). Đến gữa trưa ngày 21 tháng Sáu, Đại Úy Leonard ra lệnh cho đại đội (C) ngừng lại, tìm kiếm vị trí rộng lớn làm điểm đóng quân đêm. Khi quân Hoa Kỳ thiết lập tuyến phòng thủ đêm, một toán “nghe ngóng” (Listening Post – LP) di chuyển ra ngoài tuyến phòng thủ, người lính biệt kích Thượng đi với tiểu đội Hoa Kỳ, khiếp sợ (do kinh nghiệm, lính tính) “Đừng đi, nhiều Việt Cộng”. Không ai nghe anh ta, đẩy người lính Thương đi trước rồi cả tiểu đội theo sau. Sự yên tĩnh của màn đêm như tấm màn đen bị xe toang ra với tiếng súng nổ vang dội, hãi hùng. Người khinh binh đi đầu chạm trán với một lính Bắc Việt, cả hai nổ súng, người lính Bắc Việt bỏ chạy sau khi bắn trả lại một băng đạn làm chết người lính Biệt Kích Mỹ. Xác người lính Thượng được đưa vào giữa tuyến phòng thủ đợi sáng hôm sau, trực thăng vào đem về.

Sáng hôm sau, cả hai đại đội Hoa Kỳ chìm trong màn sương sớm. Mọi người vui sướng, chờ đợi một trận tấn công của địch nhưng không xẩy ra. Trong đại đội Charlie (C), một lính mới, binh nhì Jimmy Lee Cook phạm lỗi của người lính mới. Anh ta đi ra ngoài vòng đai phòng thủ để đi tiểu nhưng không báo cho ngời bạn biết, khi quay trở về, trời chưa sáng rõ, lính canh gác bắn chết anh ta. Đại Úy Leonard lúc đó có hai xác chết cần được di tản. Đại đội Alpha (A) ở dưới lưng chừng đồi đang chuẩn bị quay về Dak To thay cho đại đội Bravo (B). Trung Úy Judd trung đội trưởng trung đội 2, bắt đầu di chuyển xuống chân đồi, lúc đó đồng hồ chỉ 0625 (6 giờ 25 phút sáng). Toán hướng đạo chạm địch, súng nổ vang xé tan sự im lặng của núi rừng, Đại Úy đại đội trưởng Milton lên máy báo cáo chạm súng về ban 3 tiểu đoàn ở Dak To, nhưng viên sĩ quan ban 3 hành quân trực máy không quan tâm. Trung Úy Rudd rút trung đội ngưọc lên trên đồi, Đại úy Milton ra lệnh cho một trung đội khác dưới quyền Trung Úy Hood xuống tiếp cứu. Quân đội Bắc Việt siết chặt vòng vây, hai trung đội Hoa Kỳ bắt đầu chịu tổn thất. Đại Úy Milton gọi ban 3 yêu cầu pháo binh yếm trợ, nhưng vì rừng rậm, cây cao, làn sương sớm vẫn còn nên pháo binh bắn yểm trợ không hữu hiệu (khó quan sát). Trận đánh lan rộng, ở Dak To có thể nghe ược tiếng súng giao tranh, và mọi người đều linh cảm “có chuyện lớn”. Quân Bắc Việt tấn công định tiêu diệt hai trung đội thuộc đại đội Alpha (A). Lúc đó cả hai đang cố thủ, nhưng có lẽ không được lâu. Phi cơ được gọi lên yểm trợ cận phòng, nhưng khi quân bộ binh ném lựu đạn khói đánh dấu vị trí, nhưng rừng rậm, phi công không nhìn được vị trí quân bạn.

Gần đỉnh đồi, Đại Úy Leonard nghe tiếng súng sẵn sàng đưa đại đội Charlie (C) xuống tiếp ứng Alpha (A). Ban 3 tiểu đoàn không hiểu vì lý do nào nói đại đội Charlie giữ vững vị trí, cho đến 0900 (9 giờ sang) mới ra lệnh cho Charlie xuống. Thời gian quan trọng để yểm trợ cho Alpha dã qua đi, đại đội Charlie di chuyển chậm sợ bị phục kích, làm sĩ quan ban 3 bực tức “Charlie Six (Leonard), anh phải di chuyển nhanh hơn. Xuống dưới chân ngọn đồi đó!” Trong khi đó Milton giữ vững vị trí, ra lệnh cho trung đội thứ ba dưới quyền Trung Úy Sexton xuống trợ lực hai trung đội kia. Người xạ thủ đại liên M-60 bị bỏng bàn tay, định thay nòng súng cháy đỏ bằng tay không! Tình hình đại đội Alpha bết, có thể bị địch tràn ngập, ba sĩ quan trung đội trưởng đã tử trận, đa số binh sĩ chết hoặc bị thương. Các trung đội bị địch bao vây, phải lui về ban chỉ huy đại đội. Giải pháp tốt nhất, cá nhân chiến đấu tìm đường sống! Điều này có nghĩa phải bỏ lại gần hết thương binh… Khi quân nhân sống sót của bat rung đội tìm cách chạy trở về ban chỉ huy đại đội, họ nghe tiếng đồng đội bị thương không chạy được bị địch bắn bỏ. Đại Úy Milton ra lệnh cho binh sĩ trung đội súng nặng, xuống cứu giúp đem về thương binh, nhưng rất ít người về được. Đại Úy Milton gọi pháo binh yểm trợ lúc 1130 giờ, trong khi đại đội Charlie (C) dưới quyền Đại Úy Leonard tiếp tục di chuyển xuống để tiếp cứu đại đội Alpha (A).

Lúc đó lớp sương buổi sáng đã tan biến đi, pháo binh yểm trợ rất hiệu qủa. Đại đội Bravo (B) nằm với bộ chỉ huy tiểu đoàn 2/503 ở Dak To đã được trực thăng vân đưa vào vị trí dưới chân đồi ngay phiá dưới đại đội Alpha, nhưng đã qúa trễ… Phi cơ chiến thật yểm trợ cận phòng (CAS) lên yểm trợ lúc 1335 (1 giờ 35 phút chiều) cho đại đội Bravo tiến lên, thả loại bom hạng nặng Napalm, 500 cân Anh. Gần nửa thế kỷ sau (50 năm), một quân nhân tham dự trận đánh kể lại, tiếng bom, tiếng súng đạn nổ, nghe ù tai, tôi không nghe được lệnh của cấp chỉ huy.

Khi Đại Úy Leonard (ĐĐ C) xuống gần vị trí đại đội Alpha, ông ta cùng binh sĩ đại đội Charlie có thể ngửi thấy mùi hơi cay CS crystals. Binh sĩ cảm thấy mặt nạ phòng hơi ngạt không đủ sức vì không khí ẩm trong khu vực, cành lá rậm rạp, che khuất ánh nắng mặt trời. Ít phút sau, một nửa đại đội nàm dài trên ngọn đồi, tạm thời bất khiển dụng vì hơi cay CS crystals. Lúc 1420 (2 giờ 20 chiều), Đại Úy Leonard vào đến ban chỉ huy đại đội Alpha, hai viên sĩ quan đại đội trưởng bàn sơ qua tình hình rồi cho một toán quân di chuyển xuống chân đồi để biết số phận của ba trung đội, đại đội Alpha. Toán quân đại đội Charlie bị địch bắn phải quay trở lại, lúc đó đã xế chiều, đại đội Charlie đào hầm hố, lập tuyến phòng thủ đêm. Trực thăng được yêu cầu vào đem thương binh, quân nhân sống sót đại đội Alpha về Dak To. Đêm đến, quân đội Bắc Việt rút đi.

Lúc 7 giờ sáng ngày 23 tháng Sáu, đại đội Bravo chưa đụng trận, tiến lên trên đồi 1338, trong khi đại đội Charlie di chuyển xuống, tìm kiếm quân nhân sống sót đại đội Alpha. Họ tìm thấy một khoảng đất trồng nơi ba trung đội lập tuyến phòng thủ. Mùi tử khí, xác người rải rác khắp nơi, tìm được ba người sống sót thuộc đại đội Alpha.

Khi xác quân nhân đại đội Alpha được đưa về Dak To, Đại Úy Milton, phải làm nhiệm vụ nhận điện người quân nhân thuộc cấp của mình. Tổn thất cao, trong số 137 quân nhân đại đội Alpha tiến lên đồi 1338, 76 người tử trận, 23 người khác bị thương. Nếu tính thêm các đại đội khác, quân DSCĐ (LLĐB), không yểm, con số tổng cộng: tử trận, bị thương, mất tích lên cao hơn. Con số tổn thất lính Bắc Việt bỏ lại trên trận điạ 20 người, rồi các báo cáo được gửi lên theo hệ thống quân giai “thổi phồng” lên đến con số 513 lính Bắc Việt bị giết.

Khi khói súng trên ngọn đồi 1338 tan dần đi, quân đội Hoa Kÿ tìm kiếm “lý do”. Đại Úy Leonard đại đội trưởng đại đội Charlie (C) bị đổ lỗi không di chuyển đại đội nhanh xuống tiếp cứu đại đội Alpha. Đại Úy Milton bị đổ lỗi không tăng cường nhanh chóng cho trung đội lúc đầu. Tuy nhiên mọi người đều biết, lỗi lầm từ cấp cao hơn. Đưa quân vào khu vực không biết rõ sức mạnh của địch. Lý do khác để đổ lỗi là thời tiết xấu và rừng rậm gâykhó khăn cho vấn đề không trợ. Đại Tá Adamson, sư đoàn 4 BB, khuyến cáo Chuẩn Tướng Deane tư lệnh lữ đoàn 173 Nhẩy Dù nên bị thay thế, nhưng chuyện đó không xẩy ra.

Ngày 23 tháng Sáu, Đại Tướng Westmoreland lên thăm Dak To, khuyến khích, chúc mừng binh sĩ Hoa Kỳ “đá đít” địch quân. Đó là lời nói dối to lớn, một người lính Hoa Kỳ tự hỏi “Tôi băn khoăn, không biết ông ta hút loại thuốc gì? (cần sa, LSD, aỏ giác)”

III. NGỌN ĐỒI 875 – DAK TO

Đến cuối mùa xuân năm 1967, quân đội Bắc Việt đào hầm hố, công sự phòng thủ trên đồi 875. Trên đỉnh đôi, họ xây pháo đài cao 8 bộ đắp đất và thân cây đỡ đạn, đào giao thông hào nối các pháo đài. Trận đánh trên đồi 875 kéo dài năm ngày, và sẽ phải trả giá cao nhất trong cuộc chiến Việt Nam (vào tời điểm đó tháng 11 năm 1967). Trận đánh trên đồi 875 kết thúc loạt trận đánh khu vực biên giới trên Quân Đoàn II VNCH.

Đến giữa tháng Mười Một, mùa mưa hàng năm đã qua đi, buổi sáng bầu trời trong vắt, không còn làn sương sớm che phủ. Sáng sớm ngày 3 tháng Mười Một năm 1967, Trung Sĩ Vũ Hồng, pháo binh đi theo (DLO - tiền sát viên) trung đoàn 66 chính quy Bắc Việt, đào ngũ ra đầu hàng tại một đồn Điạ Phương Quân VNCH gần Dak To. Anh ta khai, nhiệm vụ sư đoàn của anh ta, tiêu diệt một đơn vị cấp lớn Hoa Kỳ, để quân Đồng Minh phải rút bớt quân từ vùng đồng bằng đưa ra khu vực biên giới. Tướng Peers tư lệnh sư đoàn 4 BB/HK sau này viết lại “Địch quân đã chuẩn bị chiến trường tốt, hầm hố pháo đài phòng thủ có giao thông hào kết nối với nhau. Họ đã đem vào chiến trường đồ tiếp liệu, đạn dược rất nhiều, rất đầy đủ và sẽ ở lại.”

III. 1. THỨ BẨY 18 THÁNG MƯỜI MỘT 1967

Ngày 18 tháng Mười Một, một đơn vị xung kích (Mike Force – LLĐB) chạm súng với trung đoàn 174 chính quy Bắc Việt trong pháo đài trên sườn đồi 875. Đơn vị LLĐB phải rút lui. Tiểu đoàn 2/503 (lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ) đeược lệnh “dọn dẹp” ngọn đồi 875. Trung Tá Steverson, tiểu đoàn trưởng 2/503 trao nhiệm vụ thảo kế hoạch, tấn công cho thuộc cấp thâm niên, Đại Úy Harold J. Kaufman đại đội Charlie (C) . Trung Tá Steverson sẽ ngồi trên trực thăng chỉ huy. Hai đại đội trưởng khác là Đại Úy Tom Kiley đại đội Alpha (A) và Trung Úy Bart G. O’Leary đại đội Delta (D). Đại đội Bravo (B) bị tổn thất nhiều trong những trận đánh trước đó, không còn khả năng tham chiến, không tham dự trận đánh. May mắn, tin tình báo về công sự phòng thủ, pháo đài của địch đã được cho biết để thảo kế hoạch tấn công. Tổng cộng khả năng tham chiến của cả ba đại đội là 450 quân nhân, tuy nhiên chưa được bổ sung sau các trận đánh trước nên quân số tham chiến của tiểu đoàn 2/503 là 290 người. Đúng 1430 (2 giờ 30 phút chiều), ba đại đội tiểu đoàn 2/503 di chuyển đến chân đồi 875. Trung Tá Steverson ra lệnh cho ba đại đội thiết lập vị trí đóng quân đêm nơi chân đồi hướng bắc để tấn công vào sáng hôm sau. Suốt đêm, không quân chiến thuật thả bom, pháo binh nện lên đỉnh đồi để ngày mai tấn công.

III. 2. CHỦ NHẬT 19 THÁNG MƯỜI MỘT 1967 – NGÀY ĐẦU TIÊN

Đúng 8 giờ sang, binh sĩ Hoa Kỳ chuẩn bị, xem xét lại súng đạn cho trận tấn công, chờ cho đợt thả bom cuối cùng xong. Lúc 0930 (9 giờ 30 phút) sang, quân Hoa Kỳ tiến lên đồi 875, Hạ Sĩ Tom Brock nhớ lại, Thếu Tá Charlie Watters, Tuyên Úy tiểu đoàn 2/503 đi ngang qua nói với anh ta “Tom, tôi đã qúa gìa cho nhiẹm vụ này” Brock trả lời “Thưa Cha, như vậy cả hai chúng ta” Linh Mục Watters rất nổi tiếng trong tiểu đoàn vì ông ta gần gủi với anh em binh sĩ trên chiến trường, và ngày Chúa Nhật  “Chúa gọi, không thể chấp nhận lý do vắng mặt.”

Đại đội Delta (D) xuất phát tiến lên, phía bên phải Delta là đại đội Charlie (C), trong khi đại đội Alpha (A) bố trí bảo vệ bãi đáp trực thăng ở phiá sau. Tiểu đoàn 2/503 di chuyển trên một rặng núi lên đỉnh đồi 875, họ đang di chuyển vào trong bẫy của địch… Pháo binh bắn dọn đường, phi cơ thả bom làm thân cây gẫy đổ ngôn ngang trên đường di chuyển. Lúc 1030 (10 giờ 30 phút), Trung Úy O’Leary đại đội trưởng Delta, di chuyển lên phia trên gần tiểu đội đi đầu và trông thấy người khinh binh dẫn đường, Binh Nhất Kenneth Jacobson leo lên một cành cây quan sát, ra dấu hiệu cho biết anh ta có thể ngửi thấy mùi lính Bắc Việt. Khi anh ta quay sang hướng khác (để leo xuống), trúng đạn của địch, tiếp theo tiếng đạn nổ vang trời như dưới âm ti địa ngục xung quanh đại đội Delta. Khi đại đội trưởng đại đội Charlie (C), Đại Úy Kaufman nhận được báo cáo (đại đội Delta bị tấn công), súng nổ vang nơi phiá trước đại đội Charlie. Cả hai đại đội tiểu đoàn 2/503 lữ đoàn 173 Nhẩy Dù Hoa Kỳ mới rời tuyến xuất phát khoảng 50 thước, bị tấn công cùng lúc. Đại Úy Kaufman (ĐĐ C) cho đại đội lui về khoảng 20 thước lập tuyến phòng thủ, đồng thời gọi pháo binh, phi cơ lên yểm trợ. Ông ta rút khẩu Colt 45 bắn chỉ thiên mấy phát ngăn cản những quân nhân hốt hoảng định bỏ chạy.

Lúc 1300 (1 giờ) chiều, tiểu đoàn 2/503 tiếp tục tiến quân. Hai đại đội Charlie, Delta tiến lên được khoảng 15 thước lại bị địch tấn công với hỏa lực mạnh mẽ. Trung Sĩ Nhất Deebs đại đội Delta tiến lên gần một pháo đài có ổ súng đại liên, quăng lựu đạn giết chết mấy người lính Bắc Việt. Nhưng khi đại đội Delta tiêp tục tiến lên lại bị bắn từ pháo đài đã bị ném lựu đạn vào. Địch quân có giao thông hào lien kêt các pháo đài nên cho một khẩu đội đại liên khác lên thay thế. Tiểu đoàn 2/503 phải mất thì giờ tốn xương máu mới lấy đuợc đồi 875. Pháo binh bạn rơi vào phe ta, nên Đại Úy Kaufman ra lệnh ngừng tấn công quay về vị trí phòng thủ.

Ở phiá sau, Đại Úy Kiley đại đội trưởng Alpha (A) bảo vệ bãi đáp trực thăng và nhận thương binh từ phiá trên (ĐĐ C, D) đưa về. Ông ta ra lệnh cho hai trung đội đi theo hai đại đội Charlie, Delta (C, D), lập một trạm quan sát cách bãi đáp khoảng 25 thước do Hạ Sĩ Carlos Lozada cùng với ổ súng đại liên M-60 đảm trách.

Bắc Việt đưa một đại đội tấn tấn công trạm quan sát, Lozada bắn gục khoảng 20 lính Bắc Việt trước khi được lệnh rút lui. Hạ Sĩ Lozada bắn cầm chừng cho đồng đội rút đi trước, đến khi còn lại một mình, Lozada định chạy theo nhưng bị bắn chết. Hạ Sĩ Calos Lozada được ân thưởng huy chương Danh Dự (cao qúy nhất – Medal of Honor) cho lòng can đảm của anh ta.

Quân đội Bắc Việt cho quân từ trên đỉnh đồi, đổ dốc nơi hướng tây, đi vòng ra sau lưng đại đội Alpha (A - bảo vệ bãi đáp trực thăng). Khi nhận thấy bãi đáp có thể bị tấn công, Đại Úy Kiley ra lệnh cho hai trung đội đang di chuyển lên rặng núi, quay trở về yểm trợ cho các tổ đang chiến đấu xung quanh bãi đáp trực thăng. Khi hai trung đội thuộc đại đội Alpha quay trở xuống chân đồi, một trung đội bị phục kích, tan hàng. Trung đội còn lại chạy ngược lên trên sườn đồi, nhập vào với hai đại đội Charlie và Delta (C và D). Quân Bắc Việt “thanh toán” xong hai trung đội, kéo xuống chân đồi tấn công phần còn lại của đại đội Alpha. Đại Úy Kilie tử trận, tuyến đại đội bảo vệ bãi đáp trực thăng bị địch tràn ngập.

Quân đội Bắc Việt đã tung “lưới bắt cá” ra, đến 1435 (2 giờ 35 phút) chiều, tiểu đoàn 2/503 bị một đơn vị cấp lớn của địch bao vây. Trong khi quân đội Bắc Việt từ trên đỉnh đồi tiếp tục bắn phá vị trí tiểu đoàn 2/503, đồng thời lính Bắc Việt bao vây các vị trí quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2/503 lúc đó đã di chuyển lên được khoảng 2/3 ngọn đồi 875, nơi rặng núi trở nên bén nhọn ở cả hai bên sườn. Đại Úy Kaufman di chuyển ban chỉ huy đại đội Charlie (C) đến một gốc cây cao, to lớn, tập trung thương binh. Quân Hoa Kỳ gần hết nước uống, đạn dược, sáu trực thăng đem nước uống, đạn dược vào tiếp tế cho tiểu đoàn bị phòng không Bắc Việt bắn rơi. Đa số đồ tiếp liệu thả xuống rơi xa vị trí phòng thủ của tiểu đoàn. Cuối cùng, lúc 1735 (5 giờ 35 phút) chiều, hai kiện hàng rơi vào được bên trong tuyến phòng thủ tiểu đoàn 2/503.

Pháo binh, không quân yểm trợ cả đêm ngăn ngừa quân Bắc Việt tấn công, tiêu diệt tiểu đoàn Nhẩy Dù Hoa Kỳ. Lúc 1835 (6 giờ 35 phút) tối, phi cơ điều không (FAC) bao vùng, điều khiển phi pháo yểm trợ cho quân Nhẩy Dù, gần hết nhiên liệu phải quay về và quân Dù sẽ có một phi cơ FAC khác lên thay thế. Khi chiếc FAC (cũ) bay về, viên phi công “bàn giao” điểm đứng (để nhận diện) vị trí tiểu đoàn 2/503, dấu hiệu một đám lửa cháy bên sườn núi. Viên phi công FAC (cũ) chưa biết một điều, đám cháy đó đã tắt, và một đám cháy mới khác bốc lên xa về phiá dưới chân đồi. Đại Úy Kaufman gom sĩ quan đại đội Charlie lại, ra lệnh những việc phải làm cho ngày hôm sau. Gần đó có một cây cao to lớn, Hạ Sĩ Robert Fleming nhân viên truyền tin đại đội Delta chú ý một phản lực độc nhất đang bay tới để thả bom trên đầu quân Bắc Việt, nhưng chiếc phi cơ này khác thường, bay trên đầu tuến phòng thủ tiểu đoàn 2/503… Có điều gì không đúng, Fleming nhìn chiếc phi cơ chúi đầu xuống thả bom. Hai qủa bom rơi trong không gian, một qủa rơi bên ngoài phòng tuyến giết chết ít nhất 25 lính Bắc Việt. Quả thứ hai rơi trúng một cành cây phát nổ, mưa mảnh bom xuống ban chỉ huy đại đội Charlie của Đại úy Kaufman và thương binh. Sức ép tiếng nổ làm cho Fleming ngất đi, và khi anh ta tỉnh lại, nhiều đám cháy, xác chết và bộ phận cơ thể vương vãi xung quanh anh ta. Tuyên Úy Watters, Đại Úy Kaufman và nhiều thương binh đã chết. Thiếu Tá Tuyên Úy Watters sau này được ân thưởng Huy Chương Danh Dự. Đa số đều chết hoặc bị thương. Qủa bom rơi lạc vào phòng tuyến phe ta giết chết 42 người, bị thương 45 người khác. Trong tổng số 290 quân tham chiến tiểu đoàn 2/503, tiến lên trên đồi 875, chỉ còn lại 73 người chưa bị sứt mẻ (bị thương).

Mặc dầu bị thương nặng, Trung Úy O’Leary (ĐĐ Delta) nắm quyền chỉ huy tiểu đoàn 2/503. Vị trí của tiểu đoàn trưởng, Trung Tá Steverson lúc đó không rõ. Có lẽ vẫn còn đang bay trên đầu chỉ huy, hay ở bộ chỉ huy tiểu đoàn cách đó bốn dặm. O’Leary bắt đầu tổ chức lại tuyến phòng thủ. Lúc đó trời đã tối, một số thương binh sẽ chết trong đêm, trước khi trực thăng có thể vào tản thương sáng hôm sau. Trong số 13 quân nhân y tá đi theo đơn vị, 11 người đã chết, 2 người còn lại bị thương… Đêm trên ngọn đồi 875 sẽ … rất dài!

Trong khi đó, Trung Tá James Johnson, tiểu đoàn trưởng 4/503 đang chỉ huy tiểu đoàn trong nhiệm vụ “Lùng và Diệt” nơi hướng tây trại LLĐB Ben Het (trại biên phòng này ngay tam biên – Việt-Miên-Lào, sau này trở thành TĐ95/BĐQ/BP), nhận được lệnh khẩn cấp buổi tối hôm đó. Ông ta được lệnh tránh giao tranh, chuẩn bị để trực thăng đưa về Căn Cứ Hỏa Lực 16 (FSB 16), cách đồi 875 ba cây số. Tiểu đoàn của Trung Tá Johnson sẽ cứu nguy những gì còn lại của tiểu đoàn 2/503. Hai đại đội (A, B) sẽ thay thế tiểu đoàn 2/503, đại đội C (Charlie) nằm trừ bị, và ại đội Delta (D) sẽ bảo vệ căn cứ hỏa lực 16.

III. 3. THỨ HAI 20 THÁNG MƯỜI MỘT 1967 – NGÀY THỨ HAI

Đến 6 giờ sáng tình hình tiểu đoàn 2/503 gần như tuyệt vọng, đạn dược, thực phẩm, đặc biệt nước uống và bông băng, thuốc men, dụng cụ y khoa gần cạn. Đêm xuống, nhiệt độ xuống khoảng 50 độ F trên vùng cao nguyên. Tiểu đoàn 4/503 di chuyển khó khan ra khỏi cánh rừng gìa đến bãi đáp, để trực thăng bốc đưa đến căn cứ hỏa lực 16. Đến 9 giờ sáng, đại đội Bravo đã gom lại đầy đủ trong căn cứ hỏa lực 16. Đại Úy Ron Leonard được lệnh di chuyển lên đồi 875 ngay tức khắc, không không phải chờ phần còn lại của tiểu đoàn 4/503. Lúc 10 giờ sáng, đại đội Bravo của Leonard đang băng rừng tiến đến vị trí tiểu đoàn 2/503.

Lúc 1730 (5 giờ 30 phút chiều), đại đội Bravo đến chân đồi 875, cuối cùng bắt tay được quân nhân sống sót tiểu đoàn 2/503, ở lưng chừng đồi. Một trực thăng bay vào được tuyến phòng thủ, thả xuống Thiếu Tá William Kelly, tiểu đoàn phó 2/503, bác sĩ quân y, Đại Úy Grosso, thêm mấy sĩ quan khác thay thế những người chết hoặc bị thương. Trực thăng nhanh chóng bốc được năm quân nhân bị thương nặng đem đi thoát. Chiếc thứ hai vào bị hỏa lực phòng không Bắc Việt bắn phải bay ra khỏi khu vực. Thiếu Tá Kelly nắm quyền chỉ huy tất cả các đơn vị trong khu vực giao tranh. Đại đội Alpha tiểu đoàn 4/503 vào đến nơi lúc 9 giờ đêm, vội vã lập tuyến phòng thủ. Cả hai tiểu đoàn lập tuyến phòng thủ chung, lại thêm một đêm lạnh, trước khi các thương binh tiểu đoàn 2/503 được di tản. Phóng viên chiến trường Peter Arnett nhớ lại những gì trông thấy khi đến đồi 875.

Đến 9 giờ sáng chúng tôi đến sườn dồi 875, bắt đầu nắm dây leo rừng leo lên. Trước mắt là khoảng trống, cánh rừng bị thả bom, cây cối bị bom, đạn đại bác cắt đứt hết cành lá, chỉ còn lại những thân cây đứng chơ vơ.

Chúng tôi bắt đầu nhìn thấy khung cảnh chết choc, những xác chết nằm vương vãi, rải rác xung quanh chúng tôi (nhóm phóng viên, báo chí), một người lính chợt la lên “A! Nhìn đám quân thù, chúng nó chết hết”. Nhưng ít giây phút sau, rõ ràng không phải xác lính Bắc Việt mà là người Hoa Kỳ. Lúc 10 giờ sáng, đại đội tiền phương của chúng ta (B/4/503) bắt tay được với phần còn lại tiểu đoàn 2/503…

III. 4. THỨ BA 21 THÁNG MƯỜI MỘT 1967 – NGÀY THỨ BA

Đến buổi sáng (ngày hôm sau) có thêm binh sĩ bị thương chết sau một đêm lạnh xuống tới 50 dộ F. Đến giữa trưa, trực thăng mới vào được, đem theo đồ tiếp liệu và di tản thương binh. Tiểu đoàn 4/503 được lệnh tấn công lên đỉnh đồi lúc 11 giờ trưa, nhưng phải đợi đến 1430 (2 giờ 30 phút) chiều để cho phi cơ, pháo binh san bằng mục tiêu.

Đó là nhiệm vụ khó khan. Đến lúc đó, sức mạnh tiểu đoàn 4/503 đã giảm xuống chỉ còn hơn một đại đội. Quân Hoa Kỳ phải tiến lên tấn công một tiểu đoàn chính quy Bắc Việt 2/174 đã đào hầm hố chiến đấu, công sự phòng thủ vững chắc, với những pháo đài, hai đường hầm dẫn xuống chân đồi dung để tăng cường viện binh, tái tiếp tế và rút lui.

Đó là một hiện tượng bắt đầu từ trận chiến Việt Nam, cấp chỉ huy từ viên tiểu đoàn trưởng hoặc cao hơn thưởng ngồi trên trực thăng bay bao vùng chỉ huy. Họ chỉ định một người nào đó chỉ huy tiểu đoàn trên mặt đất. Cấp chỉ huy không còn dẫn dắt tiểu đoàn mà trở thành người quản lý, điều hành trận đánh, binh sĩ gọi họ là “toán bay chỉ huy” Trung Tá Steverson (2/503) đã làm chuyện đó, đến phiên Johnson chỉ định Đại Úy Leonard chỉ huy dưới đất, tiểu đoàn 4/503 tấn công. Trường hợp này, chúng ta không rõ sự lợi ích … chiến đấu. Đa số các trận đánh xẩy ra trong rừng già, cây lá rậm rạp, rất khó cho cấp chỉ huy ngồi trên trực thăng quan sát. Hơn nữa, cách xếp đặt này tạo nên một lớp ngăn cách trong hệ thống chỉ huy.

Tiểu đoàn 4/503 xử dụng ba đại đội tấn công. Đại đội Bravo (B) ở chính giữa, Charlie (C) bên phải và Alpha (A) bên trái. Không còn quân trừ bị (đại đội Delta (D) nằm giữ căn cứ hỏa lực 16). Đại đội Bravo dưới quyền Đại Úy Leonard, Alpha dới quyền Đại Úy Muldon, và Đại Úy Bill Connolly chỉ huy Charlie, ông ta có 100 binh sĩ dưới quyền.

Quân Bắc Việt năm im dưới hầm hố, đợi cho đợt phi pháo Hoa Kỳ phủ đầu chấm dứt. Họ theo kế hoạch đợi các đơn vị Hoa Kỳ tiến đến gần mới khai hỏa. Sự chuẩn bị này rất hiệu qủa, súng cối và súng cá nhân của địch xé nát đội hình tấn công. Tiểu đoàn 4/503 bị hỏa lực của địch đàn áp không tến lên được. Quân Nhẩy Dù Hoa Kỳ can đảm tiến lên đến lớp chiến hào đầu tiên, nhưng bị tổn thất nặng. Tiểu đoàn mất 1/3 sức mạnh, 21 tử trận, 119 bị thương.

Tiểu đoàn 2/503 không tiến lên tấn công, tái tổ chức, di tản xác chết nhưng vẫn bị địch tiếp tục tấn công. Tiểu đoàn 4/503 rút về tuyến xuất phát chuẩn bị tấn công trở lại, tinh thần chiến đấu vẫn còn hăng say, cao độ.

III. 5. THỨ TƯ 22 THÁNG MƯỜI MỘT 1967 – NGÀY THỨ TƯ

Lữ đoàn 173 không còn quân trừ bị để tung vào chiến trường, tiểu đoàn 4/503 đã bị tổn thất, được lệnh nằm tại chỗ, pháo binh, phi cơ Hoa Kỳ thả bom, bắn phá đỉnh đồi 875 cả ngày. Sư đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ thành lập đơn vị đặc nhiệm để yểm trợ lữ đoàn 173 Nhầy Dù. tiểu đoàn 1/12 được không vận vào thung lũng gần đồi 875 để tấn công vào ngày hôm sau đúng ngày lễ Tạ Ơn Thanksgiving. Trong khi đó chiến tranh vẫn tiếp tục trên đồi 875.

III. 6. LỄ TẠ ƠN, THỨ NĂM 23 THÁNG MƯỜI MỘT 1967 – NGÀY TỨ NĂM

11 giờ sáng, tiểu đoàn 4/503 tấn công trở lại, đại đội Bravo phiá bên trái, Charlie bên phải và Alpha trừ bị. Cùng lúc đó, tiểu đoàn 1/12, sư đoàn 4 BB di chuyển ra khỏi thung lũng tiến lên tấn công đồi 875. Chuyện không may xẩy ra, Trung Sĩ Nhất William Cates đang cầm trên tay bộc phá Bangalore để phá pháo đài, bất ngờ một qủa đạn súng cối của địch nổ làm nổ tung bộc phá Bangalore. Cates cùng hai người khác chết ngay tức khắc. Địch quân chỉ pháo kích cầm chừng bằng súng cối, rút ra khỏi chiến trường. Lúc 1122 (11 giờ 22 phút trưa), tiểu đoàn 4/503 làm chủ ngọn đồi 875, vài phút sau tiểu đoàn 1/12 sư đoàn 4 BB lên sau. Quân đội Bắc Việt đã rút đi bằng đường hầm. Tiểu đoàn 4/503 mất hơn một nửa sức mạnh, 130 quân nhân tử trận, 314 bị thương, tiểu đoàn 2/503 và 1/12 BB cũng bị tổn thất.

Tiểu đoàn 4/503 được trực thăng bốc về Dak To, chỉ còn 130 quân nhân không bị thương. Chỉ có 22 xác lính Bắc Việt bỏ lại trên đồi 875, chắc chắn họ đã di tản được rất nhiều xác, người bị thương ra khỏi chiến trường. Tài liệu tịch thâu được của địch trong tháng Mười Hai năm 1967, cho biết trung đoàn 174 chính quy Bắc Việt tổn thất hơn một nửa quân số.

IV. SAU TRẬN ĐÁNH

Vào ngày lễ Tạ Ơn Thanksgiving Day, Đại Tướng Westmoreland đưa ra báo chí lời tuyên bố về trận đánh xung quanh Dak To. “Đó là bắt đầu sự bại trận của địch quân.” Ông ta nói thêm, “quân thù không thể thành công tiêu diệt một tiểu đoàn Hoa Kỳ “Chưa bao giờ một đơn vị Hoa Kỳ hay VNCH bị bao vây, rơi vào bẫy, cắt đứt đường rút lui trong khu vực Dak To.” Lời tuyên bố của Tướng Westmoreland trái ngược với sự thật. Trung Úy A.T. Lawrence, tiểu đoàn 2/8 sư đoàn 4 BB tóm lược trận đánh Dak To.

Trận đánh trên đồi 875 là những hình ảnh tiêu biểu của một trận chiến tieu hao. Gây tổn thất hơn 100 sinh mạng binh sĩ Hoa Kỳ để lấy được ngọn đồi. Họ lên tới đỉnh, khi quân đội Bắc Việt đã rút đi, họ bỏ ngọn đồi, quay trở vào rừng giang sơn của họ. Khi trận đánh kết thúc, tiểu đoàn 2/503 (lữ đoàn 173 Nhẩy Dù) có 113 quân nhân tử trận, tiểu đoàn 3/8 (sư đoàn 4 BB) 46 tử trận, tiểu đoàn 4/503 (lữ đoàn 173 ND) 45 tử trận, tiểu đoàn 1/503 (lữ đoàn 173 ND) 24 tử trận, tiểu đoàn 3/12 (sư đoàn 4 BB) 24 tử trận.

Ba quân nhân lữ đoàn 173 Nhẩy Dù được ân thưởng Huy Chương Danh Dự: John Andrew Barnes III, Carlos James Lozada, và Charles Joseph Watters (Tuyên Úy). Lữ đoàn 173 Nhẩy Dù được ghi công Đơn Vị Xuất Sắc của Tổng Thống Hoa Kỳ (Presidential Unit Citation – PUC)

Theo tài liệu:

Michael A. Eggleston, “The Border Battles of Vietnam”, Radix Press 1967, Pages 119-143

Dallas, Texas 4 August, 2023

vđh       

Previous
Previous

Phương pháp mới nghiên cứu sử học

Next
Next

Đỉnh núi Bạch Mã: Phi vụ tiếp tế cuối cùng