Huế, Đà Nẵng – Những chuyến bay cuối cùng
LTS.- Tôi biết Chiến Hữu Phan Văn Phúc từ anh sinh hoạt Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Cộng Sản Việt Nam Dallas-Fort Worth. Hai lần được tập thể TNCT địa phương tín nhiệm trong chức vụ chủ tịch Khu Hội…Cũng từ đó, anh dấn thân nhiều hơn với Tổng Hội cựu TNCT với nhiệm vụ Phụ tá Tổng Hội trưởng đặc trách về chương trình Thương Phế Binh qua các nhiệm kỳ của Tổng Hội Trưởng Nguyễn Trung Châu.
Tôi không được biết nhiều về anh Phan Văn Phúc ngoài sinh hoạt với tập thể TNCT và anh xuất thân từ binh chủng Không Quân với bộ đồ bay mà tôi thường gặp mỗi lần có các tổ chức quan trọng truyền thống của Việt Nam Cộng Hòa Không Quân, Ngày Quân Lực và Quốc Hận 30 tháng 4…Tôi chưa được anh chia sẻ cuộc đời binh nghiệp của anh và tôi vô cùng ngạc nhiên khi tìm hiểu về Phi đoàn 219 Kingbee qua bài viết người đồng đội Phạm Minh Mẫn, tôi mới biết thêm anh là gốc Nhảy Dù chuyển sang Không Quân và gia nhập Phi Đoàn nổi tiếng một thời của Không Lực VNCH là Phi Đoàn 219 trước khi chuyển về Phi Đoàn Tân Lập 253 Nha Trang.
Với tâm sự cuối đời của một người đã từng trải qua nhiều thử thách đặc biệt trong thời gian quân ngũ với nhiều kỷ niệm khó quên và anh muốn ghi lại bằng cảm xúc những gì đã trải qua để gửi lại cho người thân, bạn hữu như một lời chia tay trong đời sống vô thường. Những bài viết và tâm tư của anh Phan Văn Phúc sẽ lần lượt phổ biến trên tuần báo Người Việt Dallas.
Xin mời quý độc giả đón đọc.
Thái Hóa Lộc
Huế, Đà Nẵng – Những chuyến bay cuối cùng
Phan Văn Phúc Phi đoàn 253
Biệt đội 253 chúng tôi biệt phái cho bộ tư lệnh tiền phương Quân Đoàn I đóng trong căn cứ “Mang Cá Lớn”, chúng tôi được lệnh, mỗi lần địch pháo kích, phải cố gắng chạy ra phi cơ cất cánh lên vùng vừa tránh đạn pháo kích, vừa tìm cách ngăn chặn hoặc bắn phá các ổ đặt súng của địch xung quanh khu vực. Thời gian đề máy cho đông cơ trực thăng chạy lúc đó chúng tôi cảm thấy dài như vộ tận. Suốt mấy ngày đêm chúng tôi mất ngủ, luôn trong tư thế sẵn sàng. Đôi khi vừa chợp mắt, phải xách nón bay chạy trối chết ra cất cánh tìm bình yên trên vùng trời mà lòng đầy oán hận.
Có lẽ địch quân điều chỉnh được tọa độ chính xác, chúng pháo kích càng ngày càng nhiều hơn, chúng tôi phải dời biệt đội ra cửa Thuận An để tránh đạn pháo kích, nhưng rồi vẫn bịđịch bắn quấy phá, số luợng tăng lên. Có một đêm, lính Thuỷ Quân Lục Chiến bắt được hai tên đề lô đang điều chỉnh tác xạ cho pháo binh địch, bịt mắt đem ra qùy gối trước sân dọa nạt bắn bỏ, rồi hô bắn thật to như hét vào tai hai tên địch. Hai tên đề lô pháo binh Bắc Việt, tên này tưởng tên kia đã bị bắn, chắp tay van lậy như tế sao… tè ướt quần làm chúng tôi phì cười.
Chúng tôi vẫn tiếp tục nằm chịu trận đến chiều tối ngày 24 tháng Ba năm 1975, có một trực thăng do Trung Tá Mai từ trong Đà Nẵng bay ra đáp trên phi đạo và ban lệnh khẩn cấp, tất cả phi cơ (kể cả trực thăng) đều phải rút về Đà Nẵng, ngoại trừ trực thăng của tôi và của Đại Úy Học. Hai chiếc trực thăng của tôi và Đại úy Học ở lại, chờ chở chuyến cuối cùng cho bộ tư lệnh tiền phương Quân Đoàn I, nhưng phải dời qua đậu trong căn cứ Hải Quân bên cạnh để tránh đạn pháo kích.
Phi đạo trở nên náo loạn, binh lính vô kỷ luật tràn vào phi trường mong tìm phi cơ bay vào Đà Nẵng. Một phi cơ quan sát L-19 cất cánh vội vàng xúyt chút nữa đâm vào toán lính cố ngăn chận phi cơ cất cánh trên đường băng (phi đạo). Tôi và anh Học cũng quay máy định cất cánh bay sang căn cứ Hải Quân (lánh nạn) đều bị binh sĩ vô kỷ luật, kể cả lính Không Quân, TQLC, Điạ Phương Quân leo lêm bám đầy phi cơ, trong trực thăng của tôi có cả một xe gắn máy Honda. Cả hai chúng tôi tắt máy, giải thích mấy cũng không xong. Họ kê súng vào đầu, ép buộc chúng tôi cất cánh bay vào Đà Nẵng.
Tôi báo cáo tình hình cho đài kiểm báo Panama và phòng hành quân chiến cuộc, nhưng khi về đến phi trường Đà Nẵng, chúng tôi không được phép vào đáp trong phi trường, lệnh vắn tắt phải chờ lệnh cuối cùng… của cấp chỉ huy cao hơn. Hai chiếc trực thăng phải bay vòng quanh phi trường Đà Nẵng cho đến khi đèn đỏ báo hiệu sắp hết xăng. Tôi phải báo cáo xin cho đáp khẩn cấp… và lệnh cuối cùng, phải đáp ngoài vòng đai phi trường và tuyệt đối không được đáp trên phi đạo.
Trong bóng đêm, chúng tôi cố đáp hai chiếc trực thăng xuống từ từ nhiều lần, và nhiều lần nghe tiếng la thật to “dây điện!”Tôi toát mồ hôi vì không biết hết xăng lúc nào, nhưng rồi cũng đáp xuống được mặt đất. Khi càng trực thăng vừa chạm mặt đất, đèn pha xe tỏa ánh sánh chói lọi, khắp nơi. Quân Cảnh ùa vào bắt trói tất cả đưa lên xe chạy mất dạng. Riêng tôi và Học được đưa về trình diện ông Không Đoàn Trưởng.
Phòng an ninh báo động, nghi ngờ chúng tôi bị không tặc. Vị Đại Tá không đoàn trưởng bị áp lực nặng nề trong lúc tình thế hỗn loạn, nên nóng tính, hằn học khác thường, cho là chúng tôi đào nhiệm. Lần đầu tiên, tôi cũng tỏ thái độ bất mãn, quyết liệt đến ông Thiếu Tá Phổ, phi đoàn trưởng phải an ủi dắt nhau về lại phi đoàn. Giờ đây nhớ lại vị không đoàn trưởng thân yêu, đã qua đời, gĩa từ chúng ta vừa tròn một năm, tôi không khỏi bùi ngùi, thương tiếc.Tôi và ông dành riêng cho nhau những cảm tình đặc biệt, hầu như lần nào tôi xin di phép, ông đều vui vẻ chấp thuận. Biết bao phi vụ nguy hiểm nhất trong vùng, ông đều tin tưởng gọi về leader, mặc dầu tôi đang bận biệt phái ở bất cứ nơi nào. Những phi vụ thả quân vào cổ thành Quảng Trị, Bạch Mã, Gia Vực, tôi đã liều mình vào sinh ra tử, dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông. Biết bao lần, thầy trò ôm nhau mừng thoát hiểm, trở về an toàn, lành lặn. Thế mà chỉ vì chúng tôi bị áp lực trước họng súng của đám quân vô kỷ luật, tôi bị mất sự tin tưởng nơi ông, làm sao không bất mãn!
Tôi về phòng nghỉ phi đoàn, trong lòng còn bực bội, suốt đêm không tài nào ngủ được. Trong đêm hôm đó tôi lại gặp Đại Úy Nguyễn Xuân Tứ trong phi hành đoàn bay cho Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh sư đoàn 1 Bộ Binh. Không biết vì lý do nào đó, Tứ “thất lạc” tướng Điềm ngoài Huế, bay về Đà Nẵng một mình, đứng ngồi không yên, không thấy phi công phụ và phi hành đoàn. Hai tâm hồn… bất an, suốt đêm. Đến gân sáng, Tứ tha thiết nhờ tôi cùng bay với anh ta trở ra Huế (tìm Tướng Điềm). Chúng tôi sẽ bay thấp, tìm những xe Jeep có nhiều “cần câu” (antenna), mở tần số (không lục – liên lạc giữa Không Quân và Lục Quân), may ra tìm được Tướng Điềm. Rạng sáng ngày 25 tháng Ba năm 1975, chúng tôi bay dọc theo bờ biển, quốc lộ 1 lên hướng bắc (Huế), dân chạy giặc, di tản đông như kiến. Chúng tôi tiếp tục bay ngang thành phố Huế, vài nơi đã có bóng dáng địch (quân đội Bắc Việt / Viêt Cộng), nhưng vẫn không trông thấy, liên lạc được với xe chở Tướng Điềm. Chúng tôi liên lạc với tổng đài Panama trên đỉnh núi Sơn Chà, được trả lời, ông Điềm cùng vài sĩ quan tùy tùng thuê được một chiếc ghe chở họ ra khơi, lên được chiếc số 10 (không biết lớn nhỏ thế nào) và đang trên đường cập bến Tiên Sa (bán đảo Tiên Sa).
Chúng tôi bay về Tiên Sa chờ đón Tướng Điềm. Nhìn ông tướng tư lệnh sư đoàn 1 Bộ Binh, một trong những sư đoàn “mạnh nhất” của quân đội VNCH. Sư đoàn 1 có bốn trung đoàn thay vì ba: 1, 3, 51, và 54 (trung đoàn 2 BB đưa qua làm “xương sườn” cho sự thành lập sư đoàn 3 BB: 2, 56, và 57) bước hối hả, chạy đến chiếc trực thăng vừa khiển trách Đại Úy Tứ, vừa thúc dục chúng tôi đưa ông vào Quân Đoàn I gấp. Tướng Điềm căn dặn chúng tôi tắt máy chờ, và vài phút sau ông trở ra cùng mấy sĩ quan với bánh mì cầm tay ăn vội.
Trực thăng bay trở lại Tiên Sa, đón thêm vài sĩ quan Hải Quân, và chúng tôi được biết kế hoạch cho tầu vào đón binh sĩ đang tràn về đen bãi biển, nhưng không qua được đầm Cầu Hai. Chúng tôi bay vòng ra biển dưới cao độ thấp để binh sĩ trông thấy trực thăng chở ông tướng, ngồi vẫy tay chỉ về hướng Đà Nẵng. Mấy sĩ quan Hải Quân cố gắng liên lạc cho tầu Hải Quân vào cửa khẩu Cầu Hai (bốc binh sĩ). Đang bay lên hướng bắc (ra Huế) dưới cao độ thấp, tôi chợt trông thấy hai tên Việt Cộng, đang bỏ chạy vào lùm cây vừa bắn khẩu AK lên trực thăng. Một loạt đạn tiểu liên xung kích AK-47 trúng kính trước trực thăng vỡ toang, mảnh kính vỡ văng vào người rách áo bay, mấy người bị trúng mảnh kính, đạn đổ máu, gió ùa vào ào ạt bên trong trực thăng. Đạn đồng hổ xăng bật sang báo động cho biết thùng xăng trúng đạn, mùi xăng bốc lên nồng nặc. Tôi đổi hướng bay sát mặt nước biển, nói mọi người cởi giầy ra thật nhanh chuẩn bị bơi lội, vì phi cơ có thể chết máy lúc nào chưa biết, hy vọng có tầu vớt… Vẫn tốt hơn rơi trong đất liền, có thể bị địch giết hặc bát sống.
Tôi gọi máy báo cáo tình trạng khẩn cấp trên tần số cấp cứu (SOS). Thật may, trên bầu trời lúc đó có Trung Úy Giác đang bay tiếp tế cho binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến đang còn kẹt lại rất nhiều nơi cửa Thuận An (Huế), đang chịu đói khát từ mấy ngày qua. Giác phải dùng phi cơ riêng của Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh TQLC bay tiếp tế lương thực liên tục. Nhận được tín hiệu khẩn cấp của tôi, Giác hỏi tọa độ, sẵn sàng bay đến cứu. Tôi cho tọa độ và dặn Giác, khi nào trông thấy chiếc phi cơ lâm nạn cho biết để tôi đổi hướng bay vào đất liền (tìm chỗ đáp). Chỉ vài phút sau, Giác báo cáo đã trông thấy trực thăng của tôi đang ở hướng đông bắc. Lúc đó vị trí cách Lăng Cô không xa, tôi bay vào đất liền tìm chỗ vắng người đáp, và trực thăng của Giác đáp ngay phiá sau. Mấy ông Đại Tá dìu Tướng Điềm chạy lom khom lên trực thăng của Giác. Tôi phá tần số liên lạc, tắt máy, chạy lại trực thăng của Giác đưa mọi người về Quân Đoàn I an toàn. Tình chiến hữu “Không bỏ bạn bè” của quân chủng Không Quân được thể hiện rõ ràng trong lúc “thập tử nhất sinh” này.
Có một sự trùng hơp khá lý thú, khi phi đoàn Sói Thần 253 mới được thành lập, Trung Tá Luân được chỉ định làm phi đoàn trưởng. Phi đoàn tân lập vẫn chưa ổn định, trưởng phòng hành quân vẫn chưa có, chỉ có một số phi công từ các phi đoàn khác thuyển chuyển sang. Phi lệnh bay hàng ngày do Thiếu Tá Hiền phi đoàn phó cắt bay, thường nhờ tôi sắp xếp. Sau đó, phi đoàn nhận nhiệm vụ phải sắp xếp hai phi hành đoàn bay cố định cho tư lệnh sư đoàn TQLC và sư đoàn 1 Bộ Binh. Ông Hiền lại nhờ tôi chọn hai phi hành đoàn, đề nghị lên cấp trên.Và tôi đã đề nghị Đại Úy Tứ bay cho Tướng Điềm, Trung Úy Giác bay cho Tướng Lân. Đến giờ phút cuối, tôi lại sống chết với hai ông bạn này.
Những ngày đầy hỗn loạn trong thành phố Đà Nẵng, nghe đâu Trung Úy Giác đã bị rớt phi cơ, mất tích trên đường chạy loạn. Tôi gặp lại Đại Úy Tứ cùng chạy vào phi trường buổi sáng ngày 29 tháng Ba năm 1975, nhờ mấy anh Không Quân phòng thủ vạch lối đi, cho chúng tôi chạy theo tiếng hô hào “tử thủ” của anh em vẫn còn hăng say chiến đấu. Chúng tôi vào tìm phi cơ nhưng hầu hết đã cất cánh, tránh đạn pháo kích suốt đêm vừa qua của địch.Không còn chiếc nào có thể bay được. Rất may, tôi tìm được một chiếc khá tốt chỉ thiếu bình điện accuy, nhờ một anh vào hangar tìm, đem ra lắp vào. Tôi cho máy chạy định bay sang Non Nước, nhưng “phe ta” đã leo lên đầy trực thăng, hơn chục người khác hết chỗ không lên được, tức tối xả súng bắn bể cánh quạt trực thăng. Tôi tắt máy, nói tất cả chạy ra sân vận động, để tôi bay sang Non Nước, nhờ các phi cơ khác về đón sau. Tất cả đều xuống, tôi lại mở máy, lúc đó rất khó điều khiển vì cánh quạt bị bể, rồi nhiều người lại leo trở lại như cũ… rồi tôi lại bị chỉa súng vào đầu… rồi lại tắt máy… chịu chết!
Chúng tôi đành phải bỏ phi cơ, chạy qua Non Nước… Phi cơ đã bay đi … tất cả. Nhìn thấy một tầu Hải Quân đậu ngoài khơi, tôi cùng Đại Úy Tứ cởi áo bay cố bơi ra tầu, nhưng đuối sức không ra tầu được, đành phải bơi vào bờ. Chiếc Vespa của Tứ bị ai đó “mượn đỡ”, tôi chở Tứ trên chiếc Lambretta chạy ra Tiên Sa, nhưng khi đi được nửa đường, hai bên “phe ta” bắn nhau, chạy tán loạn. Chúng tôi đành quay trở về nhà, chờ đến ngày hôm sau đi trình diện vào trại tập trung, để rồi đi tù như biết bao cựu sĩ quan QL/VNCH khác, theo lệnh gọi “Học tập cải tạo” 15 ngày, và cuối cùng tôi phải tri qua gần 10 năm nhục hình trong lao tù cộng sản.
K.Q. Phan Văn Phúc