Huyền thoại Westmoreland trong chiến tranh Việt Nam
Joe A, De Santos, Jr.
Một trong những huyền thoại trong các giai đoạn của ngời Hoa Kỳ trong trận chiến tranh Đông Dương lần thứ Hai là hình ảnh của Đại Tướng William Westmoreland là một chiến lược gia không được thông minh. Nhiều sử gia, nhà báo, những người viết phóng sự về chiến tranh coi ông ta là một vị tướng “xấu”, so với tướng “tốt” Creighton Abrams. Một sử gia đặt tên cho quyển sách ông ta viết “Westmoreland: The General Who Lost Vietnam” (Westmoreland: Ông Tướng Để Thua Trận ChiếnViệt Nam). Một sử gia khác cho rằng ông ta (Tướng Westmoreland) là một sai lầm trong chiến lược Hoa Kỳ tại Việt Nam. Theo lời họ, thay vì chiến đấu một cách hiệu qủa, trong một trận chiến chống xâm nhập, nổi loạn, đặt trọng tâm vào người dân, ông ta (Westy) đã chiến đấu một trận chiến tranh toàn diện (quy ước) với những đơn vị lớn, chiến tranh tiêu hao (làm hao mòn) đối với quân đội Bắc Việt và chư hầu Việt Cộng.
Theo lời một sĩ quan cao cấp phòng 2 (an ninh, tình báo) cơ quan MACV, Trung Tướng Phillip Davison, người hiểu rõ Tướng Westmoreland, huyền thoại về chiến lược yếu kém do đặc tính cá nhân của ông ta. Tướng Westmoreland được xem là một người cô đơn, khó thay đổi, chỉ biết ra lệnh, người mà trong chiến tranh Việt Nam theo kiểu quy ước (toàn diện), xử dụng những đơn vị cấp lớn như trận Thế Chiến thứ Hai, chiến tranh Triều Tiên.
Về khía cạnh, Westmoreland là một chiến lược gia đi sai đường, một phần do kết qủa chiến lược chống xâm nhập, nổi loạn ở Việt Nam của Tổng Thống Kennedy. Dưới tầm quan sát khái quát về Chiến Tranh Việt Nam, các chiến thuật quy ước (xử dụng đơn vị cấp lớn) là những lời nguyền rũa cho người dân thường, vì sự thiệt hại hỗ tương xẩy ra đối với người dân lành điạ phương, những đơn vị du kích Việt Cộng dễ dàng trốn tránh những đơn vị lớn. Trong quan niệm đó, mục đch của chiến lược chống nổi loạn, xâm nhập sẽ là chương trình bình định những khu vực nổi loạn bằng cách tiêu diệt mầm mống tận gốc của nguyên do với chính trị, kinh tế, sửa đổi lại trật tự xã hội để chiến thắng “Tim óc” người dân.
Tướng Westmoreland đã có nhận xét chính xác về kẻ thù chính trong miền Nam Việt Nam.Đã có nhiều lần, nhiều nơi trong trận Chiến Đông Dương lần thứ Hai (1959-1975), đã có những đặc tính: cách mạng, nổi loạn, du kích chiến, và nội chiến, nhưng nó (chiến tranh Việt Nam) luôn luôn dựa trên căn bản từ từ xâm lăng miền Nam Việt Nam bằng quân đội chính quy Bắc Việt (NVA). Cuộc xâm lăng, lúc đầu bí mật, nhưng rồi trở nên công khai, rộng lớn. Và nó luôn được sự kiểm soát (chỉ đạo) bởi Lê Duẫn, Đệ Nhất Bí Thư của mười một (11) người Bộ Chính Trị, đảng Lao Động (cộng sản) Bắc Việt Nam.
Từ năm 1957 đến 1965, chiến lược hoạt động của cộng sản trong miền Nam Việt Nam theo khuôn mẫu giai đoạn đầu trong ba giai đoạn chiến tranh cách mạng của Mao Tse Tung. Việt Cộng xử dụng đơn vị du kích nhỏ cấp: toán, tiểu đội, trung và đại đội. Trong năm 1965, địch quân đổi sang giai đoạn thứ hai: bán quy ước, chiến thuật lưu động cấp tiểu đoàn, trung đoàn VC/Bắc Việt. Phê bình chiến thuật tiêu diệt dịch của Tuớng Westmoreland, nhắm vào giai đoạn thứ ba của Mao xử dụng đơn vị lớn tiêu diệt đơn vị cấp trung, sư đoàn chính quy Bắc Việt. Thời gian lúc Westmoreland lên nắm quyển chỉ huy cơ quan MACV (1964), địch quân đã phát triển từ đơn vị chính quy Bắc Việt xâm nhập yểm trợ VC, sang quân đội Bắc Việt xâm lăng, VC yểm trợ.
Cuối tháng Mười Hai 1964, trung đoàn đầu tiên, sư đoàn 325 chính quy Bắc Việt xâm nhập vào miền Nam. Trong tháng Giêng 1965, trung đoàn thứ hai thuộc 325 vào miền nam.Trong mùa xuân năm 1965, nhiều trung đoàn Bắc Việt / VC đưọc thành lập trong miền Nam Việt Nam.Trong tháng Chín 1965, sưđoàn 9 VC được thành lập, đến cuối năm hai trung đoàn VC được thành lập. Trong năm 1966, một trung đoàn thứ ba được thành lập, kết hợp với hai trung đoàn trước thành sư đoàn 5 VC.
Trong năm 1966, hai trung đoàn Bắc Việt khác vào đến, đầu năm 1967 thêm một trung đoàn mới vào thành lập sư đoàn 7 VC.Trong nửa năm sau 1967, khoảng 60.000 quân chính quy Bắc Việt vào đến miền Nam Việt Nam.Trong ba tháng từ tháng Hai cho đến tháng Năm 1968, ước tính khoảng 50.000 quân chính quy Bắc Việt vào đến miền nam. Ước tính cho cả năm 1967, 200.000 quân chính quy Bắc Việt xâm nhập vào miền nam trên đường mòn Hồ Chí Minh, hướng đông nước Lào và Cambodia. Trong các tiểu, trung, sư đoàn VC, tên gọi VC nhưng đa số chính quy Bắc Việt từ miền Bắc vào, và 80% sĩ quan, cán bộ người miền Bắc.
Từ năm 1965 đến 1968, Tướng Westmoreland xử dụng đơn vị lớn, chiến thuật quy ước “Lùng và Diệt”, truy lùng các đơn vị cấp lớn Bắc Việt / VC trong các mật khu, chiến khu của địch trong miền nam. Chiến thuật hung hăng của ông ta (Westy), cùng với hỏa lực khủng khiếp, di động bằng trực thăng làm cho các kho tiếp liệu của địch (VC/NVA) cạn dần. Những người sống sót mỏi mệt vì bị truy kích liên tục.
Tướng Westmoreland tuyên bố chiến thắng trận chiến tiêu hao… là điều có thễ tin là đúng. Đến năm 1967, con số tổn thất của địch (NVA/VC), cao hơn con số xâm nhập vào miền nam để thay thế tổn thất. Tổn thất của địch là 15.000 một tháng, con số xâm nhập từ Bắc vào hay tuyển mộ trong miền nam chỉ lên tới 10.500 mỗi tháng. (7000 Bắc Việt + 3.500 VC).
Từ năm 1964 qua năm 1967, Tướng Westmoreland được kính nể. Xếp hạng danh dự (Captain) trong trường Võ Bị West Point. Có bề ngoài đẹp trai, tráng kiện, cao ráo của một vị tướng bốn sao gốc Nhẩy Dù. Ngày 31 tháng Mười Hai năm 1965, trang bìa tuần báo Time tôn vinh Westmoreland là “Người đàn ông của năm 1965” Những chỉ trích nặng nề Tướng Westmoreland cùng chiến lược tiêu hao của ông ta chỉ xuất hiện trong giới truyền thông, báo chí và bị “phóng đại” sau trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân đầu năm 1968.
Trong những năm thập niên 1960, 1970, đa số người Hoa Kỳ được biết tin tức thế giới trên ba hệ thống truyền hình. Vài thông tín viên chỉ cho người dân biết theo quan điểm của mình mặc dầu không hoàn toàn đúng sự thật. Nhóm người không thích quân đội cho rằng, các lực lượng “chống nổi loạn, xâm nhập” không thấy và quân du kích đang trên đà chiến thắng. Người dân Hoa Kỳ không thể nào tin quân đội Hoa Kỳđang chiến thắng ở Khe Sanh, và trong miền nam.
Huyền thoại thứ hai của Westmoreland, sau khi phụ tá của ông ta, Đại Tướng Creighton Abrams lên thay ông ta vào giữa năm 1968.Tướng Abrams dẹp bỏ tất cả các chiến thuật của Westmoreland, thay thế bằng“một trận chiến” của ông ta, chiến thuật chống nổi loạn, xâm nhập. Được xem như thành công vì các đơn vị lớn NVA/VC đã bị tướng Westmoreland tiêu diệt, phải phân tán thành những đơn vị nhỏ.
Trận Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Bắc Việt xử dụng các đơn vị lớn (nhiều sưđoàn) xâm lăng miền Nam Việt Nam như lý thuyết của Mao trong giai đoạn thứ ba. Quân đội Bắc Việt không thành công vì quân đội VNCH chống trả quyết liệt được sự yểm trợ mạnh mẽ của Không Quân, Hải Quân Hoa Kỳ.
Tuy nhiên quân đội Bắc Việt đã học hỏi thêm được một bài học và họ đã áp dụng thành công trong năm 1975.Lần này quân đội miền Bắc đã được di động, cơ giới hóa. Trong khi đó, quân đội VNCH chiến đấu trong tuyệt vọng đã bị cắt viên trợ, không đủ vũ khí tối tân đạn dược chống lại một trận tổng tấn công của địch, và không còn được Không Quân Hoa Kỳ yểm trợ.
Người chịu trách nhiệm nhiểu nhất để cho quân đội Bắc Việt thôn tính miền Nam Việt Nam là Tổng Thống Lyndon Johnson, ông ta không nghe lời cố vấn của các tướng lãnh trong bộ Tổng Tham Mưu quân đội Hoa Kỳ (JCS).Tổng Thống Johnson chưa từng có một chính sách, chiến lược nào để chiến thắng Trận Chiến Việt Nam.
Thứ nhất, Johnson từ chối cho phép mở rộng bãi chiến trường sang đất Lào và Cambodia để phá hủy các căn cứ dưỡng quân, hậu cần của quân đội Bắc Việt, và hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh đưa quân đội, chiến cụ, đồ tiếp liệu vào miền Nam. Thứ hai ông ta ra lệnh thả bom giới hạn miền Bắc Việt Nam rồi cuối cùng bỏ luôn, mặc dầu biết rằng đó là nơi xuất phát, nuôi dưỡng cuộc chiến tranh trong miền Nam.
Chiến lược sai lầm của Tổng Thống Johnson cũng chỉ là một nguyên nhân, không bảo vệ được miền Nam Việt Nam khỏi bàn tay cộng sản. Lý do khác là tin tức phổ biến trên các hệ thống truyền hình, báo chí, phim ảnh, và đa số nghị sĩ, dân biểu quốc hội thuộc về đảng Dân Chủ (bồ câu). Năm 1973, Quốc Hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, quân dụng cần thiết (đạn dược…) cho quân đội VNCH và không cho phép phi cơ Hoa Kỳ can thiệp vào nội bộ Việt Nam (yểm trợ).
Theo tài liệu:
De Santos, “The Westmoreland Myths of the Vietnam War”, Radix Press 1967, pages: 15-20.
Dallas, TX. 24 of June 2023
vđh